Lời Chúa CN

THÁNH VỊNH CN I MÙA VỌNG - Năm B (Tv 79, 2-3.15-16.18-19) 3/12/2017

Đáp ca: « Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi,
xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con dược cứu sống »

 

2 Lạy Mục Tử nhà Ít-ra-en,
Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giu-se
như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe!
Ngài là Đấng ngự trên các thần hộ giá,

3 xin giãi sáng hiển linh cho dòng dõi Ép-ra-im,
Ben-gia-min và Mơ-na-se được thấy.
Xin khơi dậy uy dũng của Ngài,
đến cùng chúng con và thương cứu độ.

15 Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại,
tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem,
xin Ngài thăm nom vườn nho cũ,

16 bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng,
và chồi non được Ngài ban sức mạnh.

18 Xin giơ tay bênh vực Đấng đang ngồi bên hữu
là con người được Chúa ban sức mạnh.

19 Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu,
cúi xin Ngài ban cho được sống,
để chúng con xưng tụng danh Ngài.

Bài Thánh vịnh này tuy rất ngắn nhưng thật phong phú. Chỉ trong hai mươi câu đã tóm lược cả lịch sử Ít-ra-en: Những giây phút vinh quang cũng như những lúc đau khổ. Vinh quang, dĩ nhiên là lúc ban đầu khi thoát khỏi Ai-cập, Xuất Hành, tiến vào Đất Hứa, Giao Ước Thiên Chúa với mười hai chi tộc, chiếm dần phần Đất…và nhất là sự trưởng thành không có gì cản được của dân tộc này, phát xuất từ gần như không có gì (ban đầu chỉ là một nắm tay nô lệ thoát nạn). Thật vậy, có những lúc khó khăn, rồi thời gian tô đẹp cho những kỷ niệm, và dù sao cũng quá đẹp đối với thực tại…và nhất là cuộc phiêu lưu phi thường ấy, cái dân tộc nhỏ bé này biết rằng họ được như thế là nhờ Thiên Chúa, nhờ sự hiện diện thường trực của Ngài bên họ: Chính Chúa thực sự cho sinh ra và lớn lên dân của Ngài, hằng bảo vệ và ân cần chăm sóc: «Lạy Mục Tử nhà Ít-ra-en, Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giu-se như chăn giữ chiên cừu…xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ…bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh.» (c12,15,16).

Những lúc ưu phiền, chỉ có Chúa mới biết hết trong lịch sử Ít-ra-en. Không ai rõ trong bối cảnh lịch sử nào, bài Thánh vịnh này được sáng tác; dù sao, rõ ràng đây là thời gian của thử thách và đau khổ. «5 Lạy CHÚA là Chúa Tể càn khôn, đến khi nao Chúa còn nóng giận, chẳng màng chi lời dân Chúa nguyện cầu? 6 Cơm Ngài cho ăn chỉ là châu luỵ, nước Ngài cho uống là suối lệ chứa chan.» (c5,6) Sự thử thách ấy là đất nước bị ngoại bang xâm chiếm; bài rất rõ khi nói đến thú dữ «phá phách, dã thú gặm tan hoang» (c14), tường rào phá đổ (c13) (ngụ ý nói biên giới). Đây là vài câu không được đọc trong phụng vụ hôm nay: «Ngài đã khiến chúng con thành cớ cho lân bang cãi cọ tranh giành, cho thù địch nhạo cười chế giễu» (c7) Gốc nho này, Chúa bứng từ Ai-cập,(c9) Tường rào nó, vậy sao Ngài phá đổ? Khách qua đường mặc sức hái mà ăn! Heo rừng vào phá phách, dã thú gặm tan hoang.(c13.14)…Những người đã hoả thiêu chặt phá (c17)». Đây là ngụ ý nói đến các sự việc ghê tởm lúc Giê-ru-sa-lem bị quân của Na-bu-cô-đô-nô-so, vua Ba-by-lon vây hãm, vào năm 587.

 Đúng là tiếng kêu cầu cứu: Có lẽ, trong một buổi lễ sám hối, dân Ít-ra-en dâng lên Thiên Chúa một lời nguyện tha thiết nài xin «Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài» (c19). Hẳn đây là một thánh ca, bài gồm năm phiên khúc, cách nhau bằng nhiều điệp khúc. Các phiên khúc theo một cấu trúc xen kẽ: Lúc thì nhắc lại quá khứ, lúc thì kêu cầu cứu cho hiện tại. Còn điệp khúc là những lời xin tạ tội, vì thế, bài Thánh vịnh này được hát lên trong một nghi thức sám hối: «Lạy CHÚA là Chúa Tể càn khôn, xin phục hồi chúng con, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời để chúng con được ơn cứu độ.» (c20) Nhưng toàn bài nói lên lòng tin tưởng cậy trông, lòng cậy trông dựa trên những kỷ niệm của quá khứ. Thiên Chúa đã chứng minh không biết bao nhiêu lần tình yêu Chúa dành cho dân Ngài chọn…vì thế, một lần nữa, Ngài lại cứu độ họ. «Xin khơi dậy uy dũng của Ngài, đến cùng chúng con và thương cứu độ.» (c3) Tất cả bài Thánh vịnh, đặc biệt điệp khúc nói lên sự nóng lòng chờ đợi, các lời hứa của Chúa được hoàn tất vĩnh viễn.

 Hai hình ảnh ưu tiên trong Thánh Kinh, diễn tả tình yêu Thiên Chúa dành cho dân Ngài và sự quan tâm của Ngài, đó là người mục tử và vườn nho. Nói lên sự chăm sóc, chắt chiu của Chúa cho dân Ngài: như người chủ vườn nho lo cho vườn nho (làm vườn nho đòi hỏi rất nhiều việc, phải chăm sóc liên tục); như người mục tử lo cho đàn chiên của mình để không mất con nào.

«Lạy Mục Tử nhà Ít-ra-en, Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giu-se như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe! Ngài là Đấng ngự trên các thần hộ giá,  xin giãi sáng hiển linh cho dòng dõi Ép-ra-im, Ben-gia-min và Mơ-na-se» (c2.3) Ép-ra-im, Ben-gia-min và Mơ-na-se là tên ba chi tộc Ít-ra-en…ba trên mười hai chi tộc; chúng ta tự hỏi tại sao ba chi tộc này? Và tại sao là Giu-se, tại sao không phải một vị tổ tiên nào khác của dân tộc, Áp-ra-ham hay I-sa-ắc chẳng hạn? Bài này không nói gì khác hơn. Nhìn lại một chút về phả hệ chúng ta sẽ hiểu.

Gia-cóp có mười hai đứa con trai từ bốn người vợ. Các người mẹ là hai chị em Lê-a và Ra-khen, con gái của La-ban – hai người kia là hai nữ tì. Các bạn hẳn còn nhớ cái bẫy gạt Gia-cóp ngày đám cưới. Gia-cóp xin cưới Ra-khen, người phụ nữ chàng yêu tha thiết…và người bố vợ giả vờ chấp nhận. Thế nhưng, cô dâu phải che mặt đến đêm ngày cưới. Thừa dịp ấy, người bố vợ muốn gả trước đứa con gái đầu lòng Lê-a, chứ không phải Ra-khen. Thất vọng tràn trề khi vào phòng khám phá sự việc…và Gia-cóp chỉ được Ra-khen là vợ thứ! May thay, chế độ đa thê hiện hữu thời ấy đã làm cho sự việc này một ý nghĩa nào đó! Ra-khen sau này có hai người con trai là Giu-se và Ben-gia-min, còn Giu-se, con của Ra-khen cũng có hai người con trai là Ép-ra-im và Mơ-na-se. Bốn người tên là Giu-se, Ben-gia-min, Ép-ra-im và Mơ-na-se đó là hậu duệ được sinh ra từ tình yêu của Gia-cóp và Ra-khen. Họ là con cháu của tình yêu.

Có một cái tên khá lạ kỳ là Kê-ru-bim, đó là Thần Hộ Giá. Đây cũng là cách gợi lại thời hạnh phúc. Hòm Bia Thiên Chúa là một cái hòm bằng gỗ quý, làm từ cây Mi-mô-da, được mạ vàng dài 125cm, ngang 75cm. Hòm chứa các Bia Lề Luật, Chúa trao cho ông Mô-sê trên núi Si-nai. Trên mặt thùng có một tấm bảng bằng vàng và hai tượng thần hộ giá, điêu khắc từ gỗ cây dầu mạ vàng. Thần hộ giá là những thú tứ chi có cánh, đầu là người. Vai trò của những thần này là bảo vệ Hòm Bia bằng đôi cánh thật rộng, người ta tin rằng đó là những bệ để Chúa bước chân lên ngai vàng vô hình. Suốt thời Xuất Hành, Hòm Bia được đặt dưới một cái lều, và luôn đồng hành với dân chúng; sau này vua Sa-lô-mon đặt trong Đền Giê-ru-sa-lem. Dĩ nhiên không ai nghĩ là giam Thiên Chúa dưới cái lều hay trong đền, nhưng Hòm Bia tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa vô hình, biểu tượng của sự hiện diện ấy. «Ngài là Đấng ngự trên các thần hộ giá» (c2)…điều này nhắc lại chẳng những thời vinh quang của Đền thờ tuyệt vời (nay không còn nữa nếu bài Thánh vịnh này được sáng tác lúc lưu đày Ba-by-lon), mà còn là biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa tín trung không bao giờ bỏ dân của Ngài.

Phần thêm 

Theo sách Septane (bản dịch Thánh Kinh bằng tiếng Hy-lạp vào thế kỷ thứ II trước CN, có thêm trong câu đầu một chữ nói rõ tên kẻ thù: Đó là quân Át-sua. Sự kiện này cho chúng ta một mốc lịch sử, rất lâu trước Ba-by-lon giữa thế kỷ thứ 9 và thứ 7 trước CN, thời ấy Át-sua là một cường quốc xâm chiếm khắp nơi. Chính họ đã tiêu diệt Vương quốc Miền Bắc (Sa-ma-ri) năm 721…trước khi chính họ bị quân Ba-by-lon tiêu diệt. Nhưng các nhà nghiên cứu Do Thái cho rằng bàiThánh vịnh này được sáng tác về sau thời ấy rất lâu.

***

Tác giả: bà Marie-Noelle Thabut
Nguồn: 
http://www.eglise.catholique.fr/
Dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com