Lời Chúa CN

TÌM HIỂU CỰU ƯỚC CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG NĂM A - 22/12/2019

BÀI ĐỌC 1 (Is 7, 10-14)

 

"Này trinh nữ sẽ thụ thai"

 

Bài trích sách Tiên tri I-sa-i-a. 

 

10 Một lần nữa ĐỨC CHÚA phán với vua A-khát rằng:

11 "Ngươi cứ xin ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu
dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh."

12 Vua A-khát trả lời: "Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách ĐỨC CHÚA."

13 Ông I-sai-a bèn nói: "Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa?

14 Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en.

 

Không ngờ, chúng ta đang chứng kiến một trang sử bi đát nhất của dân tộc Ít-ra-en. Bối cảnh là năm 735 trước CN, thời ấy cựu vương quốc vua Đa-vít chia ra làm hai xứ nhỏ, từ 200 năm rồi. Có hai tiểu vương, với hai thủ đô: Sa-ma-ri-a ở Miền Bắc, Giê-ru-sa-lem ở Miền Nam, nơi đây, tại Giê-ru-sa-lem, từ dòng dõi vua Đa-vit này, Đấng Mê-si-a sẽ đến. Lúc này, dĩ nhiên Đấng Mê-si-a chưa sinh ra! Một vị vua trẻ A-khát 20 tuổi, vừa được lên ngôi tại Giê-ru-sa-lem, và tiếng kèn lễ đăng quang vừa dứt, là phải có những quyết định rất khó khăn.

Chúng ta biết Thánh Kinh không phải một sách lịch sử. Sở dĩ những lời Tiên tri I-sa-i-a được chép và truyền lại, bởi vì những vấn đề của vua A-khát chủ yếu là đức tin. Muốn có những quyết định khôn ngoan phải dựa vào đức tin, tức là, chỉ trông chờ vào Thiên Chúa mà thôi: Chúa đã hứa triều đại của Đa-vít sẽ không bao giờ tuyệt diệt, một khi Chúa hứa, Ngài sẽ giữ lời, Chúa không bỏ rơi dân Ngài. Ít-ra-en xác tín như thế. Thật vậy, đối với một tân vương trẻ tuổi, đó là một trách nhiệm nặng nề. Tình trạng chính trị đáng lo ngại, trong vương quốc nhỏ Giê-ru-sa-lem này lại chia làm hai phe đối kháng nhau: một bên là lực lượng đang phất lên như diều, nổi dậy ở Trung Đông, đó là Đế quốc Át-sua, thủ đô là Ni-ni-vê (ngày nay các di tích của Ni-ni-vê được tìm lại, gần Mossoul). Quân Át-sua đe dọa khắp vùng này, có những chiến dịch đã tới Đa-mát xứ A-ram và Sa-ma-ri. Năm 738, vua Đa-mát và vua Sa-ma-ri thất trận, đầu hàng và phải nộp triều cống.

Phe bên kia, chính là hai vương quốc nhỏ A-ram và Sa-ma-ri, nổi lên chống lại Ni-ni-vê, và bao vây Giê-ru-sa-lem, cố hạ bệ vua A-khát để thay một vua khác, hầu sau này đồng minh với họ trong cuộc chiến dành độc lập chống lại Ni-ni-vê. A-khát hoảng sợ, tay chân run lẩy bẩy. Các câu trước bài này viết: «Bấy giờ lòng vua cũng như lòng dân đều rung động như cây rừng rung rinh trước gió.» (Is 7, 2). Ngôn sứ I-sa-i-a bắt đầu kêu gọi họ trấn an và tin tưởng. Ngài nói đại loại như sau: «hãy tin tưởng nơi Chúa, triều đại của ngươi không thể kết thúc được, vì Chúa đã hứa như thế», và vị Tiên tri tiếp: «Lòng tin là cứu cánh của mọi người, nếu ngươi và dân chúng không tin thì không ai còn nữa». Vì theo lời khuyên của I-sa-i-a là «hãy bình tĩnh đối đầu với các mối đe dọa, đặt tin tưởng vào đức tin và vào tiềm năng của dân chúng».

Nhưng A-khát không còn nghe nữa, ông ta là người đã được Thiên Chúa Duy Nhất đặt niềm tin, ký thác, lại đi dâng lễ cầu xin mọi thần thánh, và còn làm một điều ghê rợn nhất - than ôi chuyện này rất thường thời ấy, trong các dân tộc khác, các ngôn sứ luôn nghiêm cấm - giết đứa con duy nhất của mình làm lễ toàn thiêu. Sách thứ Hai Các Vua chép rằng: «Họ đã làm lễ thiêu con trai con gái họ» (2V 17, 17). Cuối cùng A-khát thấy chỉ còn một lối thoát: để tránh sự đe dọa trước mắt của hai tiểu vương lân cận, vua Đa-mát và vua Sa-ma-ri, ông ta quyết định cầu cận sự trợ giúp hoàng đế Át-sua. Ngôn sứ I-sa-i-a cực lực phản đối giải pháp này, vì tất cả sau này đều có cái giá phải trả! Một khi A-khát xin sự giúp đỡ ấy, sẽ mất độc lập về chính trị và tôn giáo, làm như thế, một ngày một buổi quét sạch công trình giải phóng từ Mô-sê.

Thì đây là những lời của ngôn sứ I-sa-i-a nói trong bài chúng ta đọc hôm nay. Như các bạn thấy, trước khi rỉ lời nói vào tai người tín hữu, với một ý nghĩa đặc biệt cho chúng ta, các lời này được nói lên trong một tình huống đặc biệt, rất cụ thể. I-sa-i-a nói với A-khát: «Ngươi cứ xin ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh». A-khát trả lời bằng một câu hết sức giả hình: mặc dù trong lòng đã lấy quyết định hoàn toàn trái ngược với lời khuyên của I-sa-i-a, và, tệ hơn nữa, trong hoảng hốt, đem giết đứa con duy nhất làm lễ toàn thiêu, đứa con này còn là đối tượng lời hứa của Thiên Chúa, ông nói: «Không, không  tôi nào đòi hỏi chi nơi Thiên Chúa!» Đâu có thể qua mặt được I-sa-i-a, ngài nói: «Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa?» Ngôn sứ cố tình nói với A-khát: «Thiên Chúa của tôi» vì ngài cho rằng A-khát cư xử như không còn trong Giao Ước.

Nhưng mặc cho những bất trung của A-khát không ngừng tái diễn, I-sa-i-a tuyên bố Thiên Chúa vẫn trung tín. Và Chúa sẽ chứng minh, đứa con sau này Chúa sẽ ban cho dòng dõi vua, sẽ mang tên «Chúa ở cùng chúng ta». Mặc cho những các kẻ thù muốn hạ bệ A-khát, mặc cho thái độ của A-khát giết con mình làm lễ toàn thiêu, không có gì có thể cản ngăn sự tín trung của Thiên Chúa, giữ lời cho hậu duệ Đa-vít và cho dân Ngài. Thì đây «người phụ nữ trẻ thụ thai»: trong sách tiếng Do Thái, I-sa-i-a dùng một từ ngữ không có nghĩa «cô gái đồng trinh», nhưng là một phụ nữ có chồng… chúng ta sẽ trở lại trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu.

Cuối cùng những lời hứa về hài-nhi-vua: bé sẽ được nuôi dưỡng bằng kem sữa và mật ong (đó là ngụ ý nói về Đất hứa, nơi tuôn tràn sữa và mật). I-sa-i-a tiếp trong câu 16, chúng ta không đọc hôm nay: «16 Vì trước khi con trẻ biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt, (tức là trước khi trẻ trưởng thành) thì đất đai của hai vua mà ngài khiếp sợ đã bị bỏ hoang». Hãy hiểu: còn sự đe dọa của hai vua Đa-mát và Sa-ma-ri, rồi đây, không ai còn nhớ tới, trong một thời gian ngắn nữa thôi, không ai sẽ còn nói đến nữa. Thật vậy, một thời gian ngắn sau khi I-sa-i-a tuyên bố như thế, hai vương quốc A-ram và Sa-ma-ri bị đế quốc At-sua hoàn toàn đè bẹp, của cải vàng bạc mang về Ni-ni-vê, dân chúng di tản khắp nơi.

Chỉ còn vua và dân chúng được tự do, và vị vua trẻ tuổi được nói ở đây là Khít-ki-gia, lại phạm sai lầm khác. Thế nhưng, những lời tiên tri của I-sa-i-a vẫn còn giá trị: mặc cho những điều bất trung của loài người đến đâu, cũng không cấm cản Thiên Chúa trung tín với những lời hứa của Ngài, cho con cháu Đa-vít và dân Ngài. Vì thế, từ đời nọ đến đời kia, lời hứa của Thiên Chúa được giữ trong lòng, với xác tin rằng một ngày kia, dù có xa xôi mấy đi nữa, một vị Vua sẽ đến, xứng danh là «Em-ma-nu-en».

***

 

THÁNH VỊNH (Tv 23, 1-6)

 

"Chúa ngự qua, chính Ngài là Hoàng Đế hiển vinh"

 

1 CHÚA làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài,
làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư.

2 Nền trái đất, Người dựng trên biển cả,
đặt vững vàng trên làn nước mênh mông.

Ai được lên núi CHÚA?
Ai được ở trong đền thánh của Người?

4 Đó là kẻ tay sạch lòng thanh,
chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối.

Người ấy sẽ được CHÚA ban phúc lành,
được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng.

6 Đây chính là dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người,
tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp.

 

Như mọi thánh vịnh, chúng ta đang trong bối cảnh Đền Giê-ru-sa-lem. Một cuộc diễu hành vĩ đại sắp xảy ra, gần đến cửa Đền, nhiều tốp ca đoàn luân phiên hát đối thoại nhau một bài thánh ca: «3 Ai được lên núi CHÚA?» (Các bạn hẳn còn nhớ Đền Giê-ru-sa-lem được xây trên đồi cao): «Ai được ở trong đền thánh của Người?». Ngôn sứ I-sa-i-a đã so sánh Thiên Chúa ba lần thánh như ngọn lửa đốt cháy. Trong chương 33, ngài còn hỏi: «Ai trong chúng ta ở gần được lửa thiêu? Ai trong chúng ta ở gần được hoả hào muôn kiếp?» (Is 33, 14) (Ngụ ý nói, tự chúng ta, mắt không thể chịu đựng được ánh chiếu loà của hào quang Ngài). Đây là tiếng kêu vang lên của những người đang hiện diện, mặc dù biết mình không xứng đáng, trước một Thiên Chúa Chí Thánh. Đó là điều vĩ đại, dân Ít-ra-en được mạc khải như thế. Chúa Chí Thánh, Đấng Rất Khác Biệt: «Thánh! Thánh! Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh. Trời đất đầy vinh quang Chúa.», lời I-sa-i-a cất tiếng ca ngợi, phấn chấn trước sứ vụ của mình, và, đồng thời loan báo một Thiên Chúa Khác Biệt, cũng là Thiên Chúa Thật Gần gũi con người, như thế làm cho con người «chịu được» đứng trước mặt Ngài, như I-sa-i-a nói.

Bài hát tiếp: «Đó là kẻ tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối.». Đấy là câu trả lời, vì sao đây là người có thể chịu được trước mặt Thiên Chúa. Trước hết, không phải một thái độ luân lý: tôi vừa nói dân chúng biết, mình được chấp nhận mặc dù mình không xứng đáng. Nhưng đây là thái độ hội nhập đức tin vào Thiên Chúa duy nhất, tức là từ chối ngẫu tượng. Điều kiện duy nhất đòi hỏi, đó là trung tín với Thiên Chúa duy nhất, tức là «chẳng mê theo ngẫu tượng», như câu 4 bài Thánh vịnh. Hơn nữa, nếu chúng ta dịch theo nghĩa đen, câu sẽ như thế này: «kẻ không nâng lòng mình lên những thần thánh trống rỗng», cụm chữ nâng lòng mình lên, tức là cầu khẩn. Thì đây, chúng ta nhận ra một câu chúng ta quen thuộc trong (Tv 123, 1): «Con ngước mắt hướng nhìn lên Chúa». Cũng như trong sách Da-ca-ri-a được Thánh Gio-an lặp lại: «Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu» (Ga 19, 37). Ngước mắt hướng nhìn lên, theo Thánh Kinh có nghĩa là cầu nguyện, van xin, nhìn nhận là Thiên Chúa. Người có thể chịu đựng được trước mặt Thiên Chúa là kẻ không ngước mắt nhìn lên ngẫu tượng, như những dân tộc khác.  

… «kẻ tay sạch lòng thanh» trong câu 4 cũng có nghĩa như thế, chữ «sạch» ở đây có nghĩa giống như trong hóa học: sạch là tinh tuyền không lẫn lộn thứ gì khác. Lòng thanh sạch, tức là hoàn toàn ngoảnh mặt khỏi mọi ngẫu tượng, để chỉ quay về Thiên Chúa. «kẻ tay sạch lòng thanh» cũng có nghĩa như thế. Tay sạch, tức là tay không hề dâng của lễ cho ngẫu tượng, là những bàn tay không giơ lên trời cao cầu nguyện những thần giả. Phải biết thưởng thức hai cách nói song song này, giữa hai cụm chữ của câu «4 Đó là kẻ tay sạch lòng thanh… chẳng mê theo ngẫu tượng». Phần thứ hai đồng nghĩa với phần đầu: kẻ lòng thanh và tay sạch, là người không trao linh hồn cho ngẫu tượng.

Chúng ta chạm nơi đây vào một cuộc chiến, các ngôn sứ không ngừng tranh đấu, để dân chúng từ bỏ vĩnh viễn hành đạo với ngẫu tượng. Trong Bài đọc 1, chúng ta chứng kiến Tiên tri I-sa-i-a đương đầu với vua A-khát vào thế kỷ thứ VIII, nhưng chưa hết. Trong thời gian lưu đày Ba-by-lon, dân chúng chung đụng với nền văn minh đa thần. Bài Thánh Vịnh hôm nay hát lúc Lưu Đày về, khẳng định lại một cách mạnh mẽ điều kiện tiên quyết này của Giao Ước. Ít-ra-en là dân tộc cố gắng hết sức mình «tìm thánh nhan Thiên Chúa», như câu sau cùng bài Thánh Vịnh. Từ ngữ tìm thánh nhan, trước kia được các thị thần dùng khi muốn được chấp nhận trước dung nhan nhà vua: đây là cách nhắc lại đối với Ít-ra-en, vua duy nhất, chính là Thiên Chúa.

Trong lúc các ngẫu tượng chỉ là những thần tượng «trống rỗng», như người ta thường nói - đầu tiên là con bê vàng được tạc trong Xi-nai thời Xuất Hành, có thể nói khi ông Mô-sê quay lưng đi, chậm xuống núi vì ông được gặp Thiên Chúa trên ấy - dân chúng vây lấy ông A-ha-rong, gây áp lực, đến khi ông phải chấp nhận tất cả vàng của họ để đúc ra tượng con bê vàng bất hủ. Các ngôn sứ không dè dặt những lời lẽ khắt khe nào, để đả kích những kẻ tạo nên từng mảnh một ngẫu tượng, để rồi quỳ bái lạy trước nó. Tôi xin đọc thánh vịnh 115 cũng nói lên điều này: «4 Tượng thần chúng chỉ là vàng bạc, chỉ do tay người thế tạo thành. 5 Có mắt có miệng, không nhìn không nói, 6 có mũi có tai, không ngửi không nghe. 7 Có hai tay, không sờ không mó có hai chân, không bước không đi, từ cổ họng, không thốt ra một tiếng. 8 Ước gì kẻ làm ra hoặc tin ở tượng thần cũng giống như chúng vậy… 9 Thiên Chúa chúng ta ở trên trời, muốn làm gì là Chúa làm nên.» Chỉ có trung tín với Thiên Chúa duy nhất, là điều kiện để có thể lãnh nhận lời hứa cho tổ tiên họ, đó là ơn cứu độ. Cuộc chiến chưa hẳn đã thắng, vì cho đến khi Chúa Giê-su đến, Ngài còn thấy cần nhắc lại: «24 Không ai có thể làm tôi hai chủ» (Mt 6, 24).

Hiểu cách khác, sự trung tín với Thiên Chúa duy nhất, dẫn đến những hậu quả thực tiễn cho đời sống xã hội: kẻ có lòng thanh, dần dần trở nên con người có quả tim bằng thịt, không còn biết hận thù, kẻ có tay sạch không còn làm sự dữ. Câu kế tiếp «5 Người ấy sẽ… được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng», điều này nói rõ hai nghĩa: dễ hiểu nhất, đó là tuân theo kế họach Thiên Chúa, như thế người công chính là người chu toàn sứ vụ của mình, nghĩa sâu xa hơn: sự công chính mời gọi chúng ta, hoàn toàn tuân theo tất cả đời sống xã hội chúng ta vào dự án Thiên Chúa, tức là cho hạnh phúc con cái Ngài. Đọc bài Thánh Vịnh dường như ta nghe biểu hiện lên những mối Phúc Thật: «5 Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. 6 Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. 7 Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.»  (Mt 5, 5-7)

***

 

Tác giả: Marie-Noëlle Thabut                     
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions


Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân          
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng.            


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com