Lời Chúa CN

Thánh Vịnh 39(40) : 2 ;4 ;7-10

2 Tôi đã hết lòng trông đợi CHÚA,

Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu.

4 Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới,
bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta.
Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ
và tin tưởng vào CHÚA.

7 Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật,
nhưng đã mở tai con;
lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi,

8 con liền thưa: "Này con xin đến!
Trong sách có lời chép về con

9 rằng: con thích làm theo thánh ý,
và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con."

10 Đức công chính của Ngài,
con loan truyền giữa lòng đại hội;
lạy CHÚA, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh.

11 Đức công chính của Ngài,
con chẳng giữ riêng lòng mình biết;
nhưng con đã nói lên đức trung tín và ơn cứu độ của Ngài,
chẳng giấu giếm chi cùng đại hội
rằng Ngài thành tín và yêu thương.

« Tôi đã hết lòng trông đợi CHÚA, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu»

Thông thường trong các Thánh Vịnh, chữ tôi chỉ một nhân vật cộng đồng, đó là dân Do Thái ca lên bài Thánh Vịnh Tạ Ơn. Họ đã trải nghiệm những thử thách đáng sợ, và Chúa đã giải thoát họ.

Thánh Vịnh 39 (40) ở đây là một thánh vịnh tạ ơn. Bài này được viết ra để giữ một vai trò rõ ràng trong phụng vụ : hát lúc tế lễ. ( Xin đừng quên là việc tế lễ thú vật còn thực hiện sau khi đền thờ Giê-ru-sa-lem bị phá huỹ hoàn toàn, tức là năm 70 sau Công Nguyên. Thế nhưng bài này được ca lên lúc tế lễ mà lại báo trước việc tế lễ sẽ được bãi bỏ trong Giao Ước Mới.   

« Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi »

Các tiên tri phải dày công dạy dỗ để chuyển đổi thể cách tế lễ. Tất cả Thánh Kinh là một đoạn đường dài của sự thay đổi chậm rãi của quan hệ giữa dân It-ra-en và Thiên Chúa.

Tôi xin trở lại câu chuyện tế lễ của dân It-ra-en : Quan niệm này tiến triển song song theo thời gian với sự khám phá ra Thiên Chúa. Điều này có cái lý của nó : « tế lễ », theo tiếng La-tin « Sacrum facere »có nghĩa là làm điều thánh thiêng, gặp gỡ, hay đúng hơn hiệp nhất với Thiên Chúa. Tất cả lệ thuộc vào cách hiểu về Chúa như thế nào. Dần dần khi khuôn mặt thật về Thiên Chúa được khám phá ra thì việc tế lễ cũng được thay đổi.

Tôi xin nói ngay :

Điều thứ nhất cần phải nhớ : Không phải dân Do Thái bắt đầu tế lễ hay dâng lễ. (Nhiều dân tộc khác đã làm như thế trước khi dân It-ra-en là một dân tộc).

Đièu thứ hai về việc tế lễ của dân tộc It-ra-en. Suốt Thánh Kinh việc tế lễ được nhắc tới luôn. Có nhiều cách tế lễ nhưng có một điểm chung, đó là cách giao tiếp với Thiên Chúa.

Điểm thứ ba là It-ra-en cũng tế lễ như các dân tộc lân cận…đúng như thế nhưng có điều khác biệt. Điều khác biệt thật quan trọng là việc dùng người để làm của lễ toàn thiêu bị nghiêm cấm trong dân Do Thái. Thật ra thì có, trong lịch sử đã có như thế, không thể chối cải là có tế lễ người ở Do Thái ! Thế nhưng không có bằng chứng gì việc này được cho phép hay tán thành. Trái lại trong Thánh Kinh luôn được xem như một điều ghê tởm. Chúa nói qua tiên tri Giê-rê-mia :

«  Rồi chúng xây các nơi cao ở Tô-phét trong thung lũng Ben Hin-nôm để hoả thiêu con trai con gái chúng. Đó là điều Ta đã không truyền dạy, cũng chẳng bao giờ nghĩ tới » (Giêrêmia ,7 :31)

« Chúng đã xây các nơi cao kính thần Ba-an trong thung lũng Ben Hin-nôm, để làm lễ thiêu con trai, con gái mình mà tế thần Mô-léc; điều kinh tởm đã khiến Giu-đa phạm tội: điều đó Ta đã chẳng truyền, cũng không hề nghĩ tới »( Giêrêmia 32 :35)

Về cuộc tế lễ của ông Ap-ra-ham mà người Do Thái gọi là « Trói I-sa-ác »được đọc lên như một chứng từ, từ thời Giao Ước giữa Dân Ngài và Thiên Chúa, việc tế lễ lấy người làm lễ toàn thiêu bị nghiêm cấm.  Chính vì thế mà ông Ap-ra-ham khám phá ra tế lễ, « làm việc thiêng », không phải là « giết chết» ! ông đã dâng con trai ông, nhưng không giết nó.

Suy nghĩ cho cùng điều này thật lô-gíc. Chúa là Chúa sự sống : không thể tưởng tượng được muốn lại gần Thiên Chúa lại phải giết người. ! Việc cấm tế lễ người là đìều đầu tiên của Đạo Giao Ước. Việc tế lễ bằng thú vật được tiếp diễn, thế nhưng từ thế kỹ này qua thế kỹ khác có những biến đổi, có thể nói là sự hoán cải việc tế lễ. Cuộc hoán đổi từ ý nghĩa của sự tế lễ cho tới các thể chất của lễ.

1/ Về ý nghĩa của việc tế lễ. Dần dần theo cách hiểu về Thiên Chúa, ý nghĩa của tế lễ cũng biến chuyển theo. Trên thực tế có thể nói, « Hãy cho tôi biết anh tế lễ ra sao, tôi sẽ nói Chúa anh như thế nào ? »   Có phải cầu cạnh Chúa chúng ta để có thể nhận ơn lành hay để lập công với Ngài chăng ? Một Thiên Chúa giận dữ phải làm cho Ngài lắng dịu ? Một Thiên Chúa đòi phải trả giá bằng mạng sống ? …như thế thì của lễ chúng ta cũng phải trong tinh thần này, đó là những nghi lễ thần kỳ như để mua chuộc chúa loại này.

Hay là Chúa là đấng yêu thương chúng ta trước tiên, Chúa là đấng chỉ có ý định tốt lành cho chúng ta, ơn lành của Ngài đã luôn luôn đi bước trước, vì chính Ngài là Ơn lành, Chúa của Tình Yêu và của sự Sống ?...như thế thì của lễ chúng ta phải khác, đó là những cử chỉ trìu mến và tri ân. Nghi lễ sẽ không phải là những cử chỉ thần kỳ mà là dấu chỉ của của sự Giao Ước cùng Thiên Chúa.

Tất cà Thánh Kinh là một bài học tiệm tiến để đi từ hình ảnh thứ nhất sang hình ảnh thứ hai của Thiên Chúa.  Chính chúng ta mới cần được thuần nhất, cần phải khám phá ra « tất cả là quà tặng nhưng không », cần nói một cách đơn sơ  « tạ ơn » ( Thánh kinh gọi là « của lễ bằng môi »). Tất cả đường lối sư phạm của Thánh Kinh là giúp chúng ta bỏ đi  não trạng « có qua có lại », sự tính toán, lập công, để tiến tới một lô-gíc của ân huệ, và quà tặng nhưng không. Và bài học của chúng ta không bao giờ chấm giứt.


2/ Cuộc hóan đổi vể thể chất của vật tế lễ : Các tiên tri đã có một vai trò quan trọng trong việc giáo huấn dân Chúa chọn. Các ngài từ từ giúp khám phá ra của lễ mà Thiên Chúa chờ đợi : dâng những của lễ mang tính « làm việc thần thiêng »( sacrum facere) là tốt với diều kiện là không nhầm với những gì Chúa chờ đợi nơi chúng ta !. Cũng giống như các tiên tri nói « Con muốn lập mối tương quan với Thiên Chúa … ? Thế thì tốt ! …nhưng đừng lầm Thiên Chúa nhé ! » 

Có lẽ câu sau đây của tiên tri Hô-sê ( Thế kỹ thứ VIII ) nói lên một cách trung thực nhất thuyết giáo của các tiên tri :

« Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu »( Hô-sê 6 :6)

Dần dần hy lễ thật sự, « làm việc thần thiêng » được nhận ra không phải là giết chết nhưng làm cho sống lại. Thiên Chúa là Chúa của những người sống : giết chết đi không phải là một cách tiếp cận Thiên Chúa !. làm cho anh em mình sống, đó mới là đến gần Ngài.

Giai đoạn tối hậu của tính cách sư phạm các tiên tri, giới thiệu cho chúng ta một hy lễ lý tưởng. : đó là phục vụ anh em mình. Chúng ta tìm thấy điều đó trong bốn « Bài Ca Người Tôi Trung », được nêu ra trong sách “I-sa-ia-Hai”. Lý tưởng của Người Tôi Trung là lý tưởng của hy lễ đó là « hiến cuộc sống của mình cho sự sống ».

Thánh vịnh 39 (40) tóm lại một cách tuyệt vời sự khám phá ra hy lễ trong Thánh Kinh.  

« Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con »

Từ bình minh của nhân loại, Chúa đã « mỡ tai » con người, để bắt đầu cuộc đối thoại tình yêu ; thánh vnh 39(40) phản ánh quảng đường thực tập lâu dài của dân Chúa chọn để tham gia vào cuộc đối thoại. Trong giao ước trong sa mạc Si-na-i các hy lễ súc vật tượng trưng cho lòng dân ao ước thuộc về Thiên Chúa ; trong Giao Ước Mới, sự lệ thuộc trở nên hoàn toàn : cuộc đối thoại được thiết lập, lễ vật và hy lễ là « thiêng liêng » như thánh Phaolô nói :

« Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội.7 Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây »( Dt 10 :6)

Vì thế bài ca mới mới xuất phát từ con tim con người :« Đức công chính của Ngài,
con loan truyền giữa lòng đại hội »

***


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com