Lời Chúa CN

Tìm hiểu Kinh Thánh Chúa nhật XXII Thường Niên Năm A - Marie-Noëlle Thabut

BÀI ĐỌC 1 (Gr 20, 7-9)

 

"Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ"

Trích sách Tiên tri Giê-rê-mi-a

 

7 Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã quyến rũ con,
và con đã để cho Ngài quyến rũ.
Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.
Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con.

8 Mỗi lần nói năng là con phải la lớn,
phải kêu lên: "Bạo tàn! Phá huỷ! "
Vì lời ĐỨC CHÚA mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày.

9 Có lần con tự nhủ: "Tôi sẽ không nghĩ đến Người,
cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa."
Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim,
âm ỉ trong xương cốt.
Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được! 

Xem suy niệm  CN XII TN A )

 Đoạn này thuộc về lời « phân minh » của tiên tri Giê-rê-mi-a (có thể gọi là lời « tâm sự »). Ngài bày tỏ tâm tình sâu kín của ngài và những hàng chúng ta vừa đọc nói lên những tình cảm của ngài. Suốt đời ngài chỉ gặp những điều nghịch lý: niềm vui thâm sâu của ngài, lẽ sống của ngài, lòng tin của ngài… tất cả cũng là nguồn gốc mọi đau khổ. Đó là Lời Chúa. Điều này không được nêu lên rõ ràng nhưng chỉ có những ngụ ý. Chính vì ngài tuyên xưng Lời của Chúa « lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện » (2Tm 4, 2) như Thánh Phao-lô nói, vì lẽ ấy ngài bị bách hại, nhưng cũng chính những lời này mang lại cho ngài mãnh lực để tiếp tục.

« Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, » (Mc 6, 4) – Giê-rê-mi-a hiểu điều này hơn ai hết! Giê-rê-mi-a là một tiên tri vĩ đại, nhưng chỉ sau khi chết người ta mới nhận ra. Lúc ngài còn sống, lời ngài làm quá xáo trộn. Chính Giê-rê-mi-a nói rõ thời điểm ông rao giảng: « Kể từ năm thứ mười ba triều Giô-si-gia-hu, con vua A-môn » cho đến khi bị đày khỏi Giê-ru-sa-lem (Gr 25, 3), có nghĩa là từ 627 đến 587 trước CN. Trong vòng bốn mươi năm ông chứng kiến ba triều đại vua Giê-ru-sa-lem: Giô-si-gia-hu cho đến năm 609, sau đó là hai người con, Giô-gia-ríp và Xít-ki-gia, không kể đến hai vua khác chỉ trị vì trong vài tháng. Sứ vụ của ông là nói lên cho các lãnh tụ chính trị và tôn giáo « rõ ràng, không che dấu các chân lý » những chân lý không mấy dễ nghe. Có thể tóm gọn trong một từ: « bất trung », một sự bất trung giống như một sự ngoại tình. Dân Chúa chọn đã quên Chúa của mình. Và bởi vì dân quên Chúa mình nên có nguy cơ chịu nhiều tai họa.

Sách Giê-rê-mi-a gần như là nội dung - hay đúng hơn là sự thi hành sách Đệ Nhị Luật -. Sách này nói: «đừng quên ĐỨC CHÚA, Đấng đã đưa anh (em) ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ » (Đnl 6, 12) « Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh (em) chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ » (Đnl 30, 15). Giê-rê-mi-a có thể trắc nghiệm một cách cụ thể lời khuyến cáo ấy: dân chúng đã quên Thiên Chúa của họ, từ chối đức tin của mình, đặt lòng tin vào bất cứ những gì… điều tai hại nhất đang xảy đến.

Lúc bấy giờ người ngôn sứ thỉnh thoảng dùng lời cứng rắn, thỉnh thoảng dùng lời êm dịu. Những lời cứng rắn còn được gọi là « sấm ngôn bất hạnh ». Như người lái xe vô ý không thấy vực sâu, phải bấm kèn có to mấy cũng không sao để cho anh ta chú ý, hay múa tay múa chân hoặc chớp đèn chiếu xa cho anh ta thấy; mọi phương tiện có thể đều tốt… Cũng như thế, tiên tri Giê-rê-mi-a la hét, khiêu khích, nguyền rủa; có khi ngài dùng những điều lạ thường để cảnh báo vua, triều đình, các tư tế, tất cả những người trách nhiệm đưa dân chúng đến chỗ diệt vong. Ví dụ như, ông đập vỡ tan trước công chúng một cái bình sành mới tinh vừa được sáng tác từ tay một nhà làm gốm, để loan báo số phận tương tự cho Giê-ru-sa-lem: vỡ tan từng mảnh vụn. (Jr 19. 1-11)

Những lời êm dịu là những lời nhắc đến quá khứ. Ví dụ như: « ĐỨC CHÚA phán thế này: Ta nhớ lại lòng trung nghĩa của ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu của ngươi khi ngươi mới thành hôn, lúc ngươi theo Ta trong sa mạc, trên vùng đất chẳng ai gieo trồng. » (Gr 2, 2). Cũng có những lời hứa tha thứ, cũng là cách khuyến khích hoán cải. Đó là những « sấm ngôn cứu độ ». Cũng có những cử chỉ thực tế nói lên tin tưởng vào lòng cậy trông. Ví dụ như vào lúc thành bị quân của Na-bu-cô-đô-nô-so, vua Ba-by-lon vây hãm (thế quân hai bên bất tương xứng, biết trước là họ sẽ thắng trận), Giê-rê-mi-a lấy quyết định mua một thửa rộng để nói lên mọi sự không mất tất cả, sẽ có một ngày hòa bình trở lại.

Những lời có lúc hung bạo hầu đe dọa, có lúc êm dịu, đó là điểm chung nơi các ngôn sứ. Tất cả đều nhắm vào một mục đích, sự cứu độ cho dân chúng: các lời đe dọa nhắm cho hoán cải, các lời cổ vũ để đồng hành với hoán cải, một khi dân chúng quyết định thay đổi cuộc sống. Luôn luôn là đề tài « hai con đường » chúng ta thường gặp: khi dân chúng xuống dốc, như ta thường nói, người ngôn sứ loan báo những tai họa không thể nào tránh, chính với hy vọng họ tránh đi, như Chúa nói cho Giê-rê-mi-a: « May ra chúng sẽ nghe và mỗi người sẽ bỏ con đường xấu xa của mình mà trở lại» (Gr 26, 3). Nhưng khi vừa thấy có dấu hiệu thiện chí, người ngôn sứ lặp lại lời ngọt dịu của Chúa và lời hứa tha thứ.

Như chờ đợi, các lời ấy đây đó cũng có người chấp nhận! Những lời, có khi rất cứng rắn, mọi người không thích. Ví dụ như khi ngài nói: « Chẳng lẽ người Cút lại đổi được màu da, và con báo lại đổi được những đốm đen trên mình? Các ngươi là những kẻ quen làm điều ác lại có thể làm điều thiện được sao? » (Gr 13, 23), thật tình, không thể nào làm vui lòng được. Hay khi ngài nguyền rủa công khai: « tất cả họ là quân ngoại tình, một lũ người phản bội. » (9, 1)…  « người lớn cũng như kẻ nhỏ, tất cả đều gian tham bớt xén. Ngôn sứ cũng như tư tế, tất cả là một lũ gian phi. » (8, 10). Và khi ngài loan bào thành phố họ đang hãnh diện sẽ bị tàn phá, không lạ gì ngài bị bách hại: ông sớm trở nên người gây rối, bị lập mưu tống khứ đi. Các chữ đầu tiên của bài hôm nay thể hiện chính xác tình trạng ấy. « Con nghe biết bao người vu cáo: "Kìa, lão "Tứ phía kinh hoàng! hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi! " Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã. Họ nói: "Biết đâu nó chẳng mắc lừa, rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó! »( c10)

Khi đọc lại sách Giê-rê-mi-a, ta không khỏi nghĩ đến câu: « Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân. » trích từ (Tv68,10) và sau này Thánh Gio-an cũng nhắc lại khi nói về Chúa Giê-su. Câu này tóm đầy đủ cuộc đời tiên tri Giê-rê-mi-a. Không có gì ngăn cản ông được; ngài có những lúc thối chí, như tất cả các ngôn sứ, nhưng, như ngài nói, Chúa ở cùng ngài như một chiến sĩ đáng sợ. Ngài biết tình yêu Thiên Chúa mãnh liệt hơn tất cả. Điều ngài gọi là Chúa « trả thù » (c10)  

***

 

THÁNH VỊNH (Tv 62, 2-6.8-9)

                          

Đáp: «Lạy Chúa là Thiên Chúa 1à con, linh hồn con khát khao Chúa.» 

 

2 Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ,
ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.
Linh hồn con đã khát khao Ngài,
tấm thân này mòn mỏi đợi trông,
như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.

3 Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện,
để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.

4 Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống,
miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương.

5 Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng,
và giơ tay cầu khẩn danh Ngài.

6 Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc,
môi miệng con rộn rã khúc hoan ca.

8 Quả thật Ngài đã thương trợ giúp,
nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui.

9 Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó,
giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì.

 

«Giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì: Đẹp thật nhưng cũng không kém lạ kỳ! Thật sự, hãy tưởng tượng tư tưởng chúng ta đang bay bổng trong Đền Giê-ru-sa-lem (dĩ nhiên trước khi thành bị phá huỷ năm 587 trước CN, thời vua Na-bu-kô-đô-nô-so)…và giả dụ như chúng ta là tư tế hay một người Lê-vi. Hòm Bia (LND: tiếng Pháp chuyển ngữ là Arche, còn có nghĩa là vòm cầu)  được đặt trong ấy, đây là nơi cực thánh, «Thánh, chí Thánh». Nhưng xin cảnh báo, khi chúng ta (LND: người Pháp) gọi là hòm bia, và có thể nghĩ đến một công trình kiến trúc đồ sộ: Dân thành phố Paris liên tưởng đến Khải hoàn môn gần La Defense …Đối với Ít-ra-en thì khác hẳn! Đó là một điều gì thánh thiêng nhất: một cái tráp nhỏ làm bằng gỗ quý, mạ vàng từ bên ngoài lẫn bên trong, đựng các hòm bia Lề Luật. Trên hòm bia có khắc hai tượng thiên thần lớn canh giữ.

Các minh thần (Cherubins) còn gọi là thiên thần Kê-ru-bim, không phải dân Ít-ra-en nghĩ ra: chữ này đã có từ thời Mê-sô-pô-ta-mi-a. Đó là những sinh vật thần thiêng, thân sư tử, mặt người và nhất là có cánh thật lớn. Ở Mê-sô-pô-ta-mi-a những minh thần được thờ phượng như thần thánh…Trái lại bên Ít-ra-en, họ cẩn thận xem các Kê-ru-bim này như những tạo vật: được biểu hiện như những kẻ canh giữ Hòm Bia, và đôi cánh được xem như những bậc thang Thiên Chúa bước lên ngai. Trong bài này, vị tư tế đang cầu nguyện trong đền, dưới bóng hai cánh Kê-ru-bim, cảm thấy được trìu mến che chở của Chúa, từ rạng đông cho đến tối.

Các hình ảnh khác bài Thánh vịnh được trích từ những từ vựng các Lê-vi: «Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện» (c3) (họ là những người duy nhất được vào vùng thánh trong Đền): «Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng» (c5) (Suốt đời của họ được cống hiến để chúc tụng Chúa)… «giơ tay cầu khẩn danh Ngài» (c5) (người Lê-vi cầu nguyện tay giơ lên trời)… «Lòng thỏa thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca» (c6) (Ngụ ý nói về vài buổi lễ tế, sau đó có bữa ăn chung với tất cả tham dự viên; ngoài ra các Lê-vi được nhận một phần thịt từ những của lễ tế.)…«Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thĩ với Ngài.» (câu 7 không có trong phụng vụ hôm nay, cả đời họ sống bên trong Đền)

Thật ra bài Thánh vịnh này giống như một dụ ngôn. Người Lê-vi là toàn thể Ít-ra-en, từ rạng đông lịch sử cho đến tận thế. Kinh ngạc vể sự thân mật, về sự gần gũi Thiên Chúa đề nghị cho họ: «ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài,» (c2)…khi nói  «ngay từ rạng đông» là có ý nói từ khởi đầu lịch sử dân tộc; từ muôn thuở Ít-ra-en đi tìm Chúa của họ. «ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.» (c2); ở Ít-ra-en cách phát biểu này rất thực tế: đất thì hoang sơ, khô cằn, chỉ chờ mưa xuống để sống lại, đó là một trải nghiệm thông thường, rất gợi ý.

Từ rạng đông lịch sử dân tộc, Ít-ra-en khao khát Thiên Chúa của họ, sự khao khát càng lớn nữa khi đã trải nghiệm sự hiện diện, sự gần gũi Chúa đề nghị cho họ. Vì thế, đó là cách hiểu cao, sâu hơn về trải nghiệm của dân tộc này, hé lộ ra trong bài Thánh vịnh. Ví dụ như câu 2 «Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước» hẳn ngụ ý nói về thời gian sống trong sa mạc, ngay sau khi rời Ai-cập, và trải nghiệm khủng khiếp khi gần chết khát tại Ma-xa và Mơ-ri-va (Xh17). Lời nguyện đẹp nhất thoát ra từ sự nghèo hèn thiêng liêng, như lời than của người mất nước trong cơ thể: «Tôi khát».

«Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện» (c3) câu này ngụ ý nhắc đến những biểu hiện Thiên Chúa trong sa mạc Si-nai, nơi thánh thiêng dân chúng chiêm ngắm Thiên Chúa của họ ban Giao Ước…«để thấy uy lực và vinh quang của Ngài». Trong ký ức dân tộc Ít-ra-en, điều này gợi lên những kỳ công thời Xuất Hành, để giải thoát dân Ngài khỏi vòng nô lệ Ai-cập, cũng như công thức «chính Người cứu độ tôi» (Xh15, 2). Ở It-ra-en, không ai trong đời người, có thể quên câu sau đây Thiên Chúa nói với ông Mô-sê: «Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng.» (Xh3, 7)

Khi suy niệm về cuộc giải phóng của Thiên Chúa, người ta thường so sánh con chim Bằng tập cho các con bay: «Tựa chim bằng trên tổ lượn quanh, giục bầy con bay nhảy, xoè cánh ra đỡ lấy rồi cõng con trên mình.» (Đnl32, 11). Như một tiếng vang, trong sách Xuất Hành, kết Giao Ước có câu: «Các ngươi thấy Ta đã xử với Ai-cập thế nào, và đã mang các ngươi như trên cánh chim bằng, mà đem đến với Ta» (Xh19,4). Thế thì, phải chăng các cánh thiên thần Kê-ru-bim trong Đền lại mang một ý nghĩa khác nữa? Đó là những cánh chim bảo trợ của đấng dẫn Ít-ra-en đến con đường tự do.

Gợi lại tất cả những sự kiện thời Giao Ước, sự gần gũi không bóng che, điều này gợi ý cho chúng ta bài Thánh vịnh được sáng tác trong thời điểm không mấy sáng chói, lúc ấy dân cần bám vào những kỷ niệm của quá khứ. Tất cả mọi sự không được tốt đẹp cho lắm và các câu (phụng vụ hôm nay không được nghe) nói lên rõ ràng, có thể nói một cách mãnh liệt, chờ đợi qua đi sự dữ trên trái đất, ví dụ như: «Còn những kẻ tìm hại mạng sống con, ước gì chúng phải xuống vực sâu lòng đất» (c10). Ít-ra-en chờ đợi hoàn tất mọi lời hứa Thiên Chúa, trời mới và đất mới, mọi người được giải thoát khỏi sự dữ và bách hại.

Câu 2: «từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông,» nói lên lòng ước mong ấy chưa được thỏa mãn: Ít-ra-en là một dân tộc đang chờ đợi, đang ước mong:«Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông. Hơn lính canh mong đợi hừng đông,» (Tv130, 6). Khi Chúa Giê-su nói về canh chừng, tỉnh thức, trong bài dụ ngôn Mười Trinh nữ (bài Phúc Âm Chúa nhật hôm nay) là Ngài nghĩ đến điều ấy: Thường xuyên tìm Thiên Chúa.

Ngày nay, để tiếp theo dân Ít-ra-en, dân Ki-tô cũng đem nội dung này trong lời nguyện: sự khao khát, chờ đợi ấy. Bài Thánh vịnh 62 được chọn trong sách Giờ Kinh Phụng Vụ cho ngày Chúa nhật buổi sáng. (tuần 1) Vì trong phụng vụ Ki-tô, Chúa nhật là ngày Chúa Ki-tô Phục Sinh, là ngày được chọn ưu tiên để chúng ta cử hành toàn bộ mầu nhiệm Giao Ước Thiên Chúa với dân Ngài, từ rạng đông lịch sử, trong khi chờ đợi Nước Trời ngự đến vĩnh viễn.

***

 

BÀI ĐỌC 2 (Rm 12, 1-2)

 

«Anh em hãy tiến thân làm của lễ sống động»

Trích thư Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Rô-ma

 

1 Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người.

2 Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.

 

Mười một chương đầu thư Thánh Phao-lô, gửi tín hữu thành Rô-ma triển khai vấn đề giáo thuyết. Những đề tài thần học quan trọng được Thánh Phao-lô mở rộng rất phong phú, và sâu sắc: Sức mạnh ân sủng, tính hoàn vũ của tội lỗi, công chính hóa bởi đức tin, mầu nhiệm phục sinh, hành động của Thần Khí, ơn cứu độ, được hứa và trao ban cho mọi người. Bây giờ, cũng như trong tất cả thư Thánh Phao-lô. Thánh nhân rút ra những hệ luận từ các bài học của ngài: Những sự thật này làm xáo trộn tất cả đời sống.

«vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em» (c1) đấy, bài hôm nay bắt đầu như thế. Tất cả những gì ngài muốn nói ở đây, liên quan mật thiết với tất cả những gì ngài viết trước đó, đặc biệt những hàng sau cùng của chương trước đây, các chữ: «Quả thế, Thiên Chúa …để thương xót mọi người.» (Rm11, 32) (Sau đó là bài ca ngợi khen ân sủng, Chúa nhật vừa qua chúng ta được nghe): «sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được!34 Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người?... A-men» (Rm11, 32-34) Vì thế, Thánh Phao-lô nói, không nên chần chừ: Chỉ có một cách đáp lại Thiên Chúa tuyệt vời ấy, một Thiên Chúa từ bi nhân hậu, luôn mong muốn cứu độ loài người, không loại trừ một ai, toàn năng bởi khả năng tha thứ của Ngài, đó là, hãy buông bỏ tất cả để tin cậy vào Ngài. Hãy hiến dâng tất cả đời sống chúng ta, tất cả con người chúng ta, cho một thực tại làm xáo trộn toàn bộ cuộc sống. Hãy hiến dâng cho Chúa, để Ngài hoàn tất kỳ công của Ngài nơi chúng ta: «Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người.» (c1). Biết rằng chữ «hiến dâng» trong gốc La-tinh, có nghĩa là làm điều thánh thiêng, vì thế có thể hiểu câu này: «Tôi khuyên nhủ anh em hãy làm cho con người anh em, đời sống của anh em trở nên một điều thánh thiêng, một điều nên thánh» Thánh Phao-lô sau này nói cách khác, và nhấn mạnh rằng điều này rất khả thi: «Thật vậy, Đức Ki-tô đã lấy thần lực của Người mà ban tặng chúng ta tất cả những gì giúp chúng ta được sống và sống đạo đức, khi Người cho chúng ta biết Đấng đã dùng vinh quang và sức mạnh của mình mà kêu gọi chúng ta. Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian.»  (2Pr1, 3-4) Chúng ta được mời gọi sống theo thánh vịnh 40 (39): «Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, con liền thưa: "Này con xin đến! Trong sách có lời chép về con» (Tv40, 7-8). Cũng như một tiếng vang, hãy nghe tiên tri Mi-kha: «Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt, điều nào ĐỨC CHÚA đòi hỏi bạn: đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn.» (Mk6, 8)

«Hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người.» (c1) Thánh Phao-lô nói như thế. Nếu xét từng chữ Thánh nhân dùng, chúng ta nhận xét chữ «xứng hợp» trong bài, được dịch từ tiếng Hy-lạp «Logikos», có nghĩa là hợp với lý trí và lô-gic: Sống như thế đó là điều lô-gic, Thánh Phao-lô nói, và xứng hợp với những gì Thiên Chúa làm cho chúng ta: Không phải những cử chỉ bên ngoài nhưng là thờ phượng, khiến sự dâng hiến thật sự và toàn diện.

Sự dâng hiến toàn diện này là cộng tác tích cực vào thánh ý Chúa: Thánh ý ấy là  «… muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.» (1Tm2, 4). Thánh Phao-lô dùng tất cả đoạn sau thư gửi tín hữu Rô-ma, để trình bày thế nào là sự dâng hiến toàn diện người Ki-tô: Mỗi người, tùy khả năng và phẩm chất riêng từng người, được mời gọi giữ chỗ đứng của mình trong sứ vụ của Giáo Hội, là phục vụ anh em. Điều này đòi hỏi chúng ta chấp nhận «cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.» (c2)

***

 

PHÚC ÂM (Mt 16, 21-27)

 

Alleluia, alleluia!

- Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống, Chúa có những lời ban sự sống đới đời. - Alleluia.

-----------------

 « Nếu ai muốn theo Thầy thì từ bỏ mình» 

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mát-thêu

 

21 Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.

22 Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! "

23 Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: "Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."

24 Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.

25 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.

26 Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?

27 "Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.

 

Bài tường thuật xảy ra sau sự kiện đáng ghi nhớ, Thánh Phê-rô tuyên xưng đức tin và được Chúa Giê-su đáp lại: «Này anh Si-môn, con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời» (Mt16, 17). Cũng như các mối phúc thật, câu «anh thật là người có phúc» nghe như lời khen và một lời khuyến khích. Và, thật vậy, phải có nhiều can đảm lắm, Thánh Phê-rô mới có thể giữ lòng trung tín với lời tuyên xưng đầu tiên ấy. Vì thánh nhân chưa đo lường được tầm quan trọng của lời tuyên xưng này; Chúa Giê-su không ngớt làm anh ngạc nhiên. Thật vậy, Chúa đã chấp nhận, hơn nữa chỉ ngầm thôi, để Thánh Phê-rô nhận ra Mình là Đấng Mê-si-a (Cha của Thầy mặc khải cho anh điều ấy)và liền lúc ấy, Chúa trình bày chương trình của Ngài, chương trình này không khớp chút nào với ý nghĩ mọi người về Đấng Mê-si-a: «Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ …» (c21), đây là thế giới đảo ngược: Một vị vua không khí giới, không đặc quyền…, còn tệ hơn nữa, một vị vua bị hành hạ và còn có vẻ ưng thuận như thế…Chúa nói phải đau khổ nhiều và còn bị giết chết! Lạ thật!

Thánh Phê-rô có lý khi nổi dậy. Cũng như mọi người thời ấy, thánh nhân chờ đợi một Đấng Mê-si-a - Vua vinh thắng, oai phong, uy quyền và đánh đuổi quân ngoại bang La-mã ra khỏi vĩnh viễn đất Pa-lét-tin. Trong lúc những gì Chúa Giê-su tuyên bố thì không chấp nhận được. Thiên Chúa uy quyền không thể nào để xảy ra như thế! Có thể đặt cho bài này tựa đề: «Lời chối Chúa đầu tiên của Thánh Phê-rô», lần đầu từ chối theo Đấng Mê-si-a trong đau khổ. Chúa Giê-su tiếp nhận sự từ chối bộc phát ấy của Thánh Phê-rô như một sự cám dỗ chính Ngài, và Chúa trả lời một cách mãnh liệt: «Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người» (c23)

Cách nhìn tự phát của chúng ta, dù rất có tính cách «đời thường», điều đó không có gì tự nhiên hơn! Thế nhưng phải để Chúa Thánh Thần biến đổi, có khi phải xáo trộn hẳn, nếu muốn trung thành với dự án Thiên Chúa. Dự án ấy của Thiên Chúa rất khác với cách chúng ta nhìn «tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi» (Is55, 8) thường được phát biểu bằng cách nói «phải chi», với nghĩa «than ôi phải chi…» Dự án Thiên Chúa, không có gì khác hơn là để thế gian được cứu độ, tức là nhân loại mới được sinh ra, một nhân loại sống nhờ lòng từ bi nhân hậu Thiên Chúa, là hình ảnh của chính Ngài. Thế nhưng, sự cứu độ không xảy ra do tác động của chiếc đũa thần: Trong trường hợp này, sự tự do chúng ta ở đâu? Sự cứu độ đòi hỏi không thể nào không có sự hoán cải con người; thế nhưng, làm sao hoán cải nếu không chỉ đường cho họ? Vì thế, Chúa Giê-su phải  đi đến cùng con đường êm dịu, hiền từ, tha thứ, để rồi đến phiên chúng ta cũng theo con đường ấy.

Dự án cứu độ Thiên Chúa, không thể nào hợp với con đường một Đấng Mê-si-a vinh thắng. Để «mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý» (1Tm2, 4), phải để cho họ được mặc khải Thiên Chúa từ bi nhân hậu giàu lòng tha thứ. Điều này, không thể nào truyền đạt bằng những hành động uy quyền, mà bằng sự dâng hiến tuyệt đỉnh sự sống của Chúa Con: «Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình» (Ga15, 13)   

***

 

Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions


Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân

Hiệu đính: Nguyễn Thế Hoằng.

 


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com