Mẹ Teresa Calcutta - Thiên sứ của TÌNH YÊU

BBT: Thưa quý Anh Chị Cursillista.

Cách đây không lâu có cuốn sách về “Nữ tu truyền giáo Têrêsa”, có lẽ nhiều người đều biết những câu chuyện về nữ tu Têrêsa rất đáng xem, điều này không có gì lạ. Nữ tu Têrêsa là người cả đời không làm việc vì tiền. Mẹ chỉ biết dâng hiến vì người nghèo khổ. Với Trung Quốc, Mẹ nhiều lần xin chính quyền Trung Quốc cho mở tổ chức từ thiện để chăm sóc cho những người nghèo khổ, nhưng chính quyền Trung Quốc đã từ chối và trả lời: “Trung Quốc không có người nghèo”.

Hôm nay cả thế giới kỷ niệm 105 năm ngày sinh của Mẹ (26/8/1910- 26/8/2015). Với tất cả tấm lòng tri ân và kính trọng, chúng tôi xin chia sẻ với quý anh chị gương sống của Mẹ.

Thân kính.

 


TỔNG THỐNG HOA KỲ RONALD REAGAN
TRAO TẶNG MẸ TERESA HUY CHƯƠNG TỰ DO NĂM 1985

Nữ tu Têrêsa, một đời sống vì những người nghèo khổ trên thế giới, rất nhiều quốc gia đã hưởng ứng theo kêu gọi của Bà. Trước khi lâm chung Bà nói: “Tôi ân hận là không mang Phúc âm truyền được cho người nghèo ở Trung Quốc. Tôi đã rơi nước mắt rất nhiều vì những người nghèo ở Trung Quốc.”

Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton từng nói: “Tôi không đáng xách dép cho nữ tu Têrêsa.”

Nữ tu Têrêsa sinh ngày 26/8/1910 tại Albani, năm 12, tuổi Bà đã có chí trở thành nhà tu hành. Năm 18 tuổi, Bà vào tu viện và được gọi là nữ tu Têrêsa. Sau đó Bà được đưa đến sống tại Ấn Độ.


MẸ TERESA VÀ ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLO II

Nữ tu Têrêsa đến Ấn Độ năm 18 tuổi và sống ở đó liên tục. Mùa hè năm 1952, vì tình yêu và sự tôn trọng với người nghèo, Bà cho thành lập ở Calcutta, Ấn Độ “Ngôi nhà cho người hấp hối”.

Một cô gái 18 tuổi, vô gia cư, thế mà hàng ngày làm việc đẩy một cái xe nhỏ đi khắp nơi, từ những đống rác, khu kênh rạch, cửa giáo đường, những bậc thềm công trình công cộng… để tìm những người bệnh thoi thóp, những đứa trẻ bị bỏ rơi, người già hấp hối, rồi lại đi khắp nơi kiếm đồ ăn cho họ, kiếm thuốc cho họ chữa bệnh, tìm thầy thuốc giúp đỡ họ…

Nhiều người tận mắt chứng kiến nữ tu Têrêsa dìu một người ăn mày từ rãnh nước bẩn, chân bị ruồi nhặng ấu trùng ăn, thấy Bà kề trán vào sát bên một người bệnh hấp hối, thấy Bà giành một đứa bé đang khóc từ mõm một con chó, thấy Bà ôm chặt trong lòng một người bệnh AIDS, họ nói với Bà: Chúa yêu Người, đang ở trên trời đợi Người.

Năm 1979, nữ tu Têrêsa được giải Nobel hòa bình. Khi đó Bà mặc bộ sari chỉ đáng giá 1 USD bước lên bục nhận giải thưởng. Cho dù gặp mặt Tổng thống hay phục vụ người nghèo khổ, Bà đều mang bộ đồ này. Bà không có bộ nào khác. Phía dưới đài ngồi toàn những quý nhân có thân thế lẫy lừng, nhưng Bà như không thấy ai, trong mắt Bà chỉ có người nghèo. Thế rồi bầu không khí bên dưới chợt lặng ngắt như tờ.

“Vinh hạnh này, cá nhân tôi không xứng đáng, tôi chỉ xin thay mặt cho tất cả những người nghèo đói, người bệnh tật, người cô độc đến đây để nhận giải thưởng này, vì tôi tin họ muốn gửi giải này cho tôi, để thừa nhận người nghèo cũng có sự tôn trọng”.

 

Nữ tu Têrêsa đã nói như thế. Bà lấy danh nghĩa người nghèo khổ để nhận giải, chính là vì cả cuộc đời Bà vì người nghèo khổ mà sống.

Khi Bà biết bữa tiệc trong lễ trao giải Nobel tốn 7.000 USD, Bà thỉnh cầu Chủ tịch Hội nghị bỏ buổi tiệc này, Bà nói: “Mọi người dùng số tiền này chỉ chiêu đãi 135 người, nhưng nó có thể đủ cho 15.000 người ăn một ngày”. Thế là bữa tiệc đã bị hủy bỏ. Nữ tu dùng số tiền này cùng 400.000 Franc Thụy Sĩ tiền quyên góp, và toàn bộ phần thưởng giải Nobel, gồm cả huy chương giải Nobel mà mọi người ngưỡng mộ đem bán lấy tiền, tất cả đều dâng hiến cho người nghèo.

Đối với Bà, huy chương mà không biến thành tiền phục vụ người nghèo thì không có giá trị gì.

Từ năm 1928 khi Bà đến Ấn Độ cho tới năm 1980, những người làm việc cùng Bà đã lên đến hơn 139.000 người, được phân bố trên toàn thế giới. Họ không có bất cứ đãi ngộ nào, ngay cả giấy chứng nhận cũng không có. Họ không cần những thứ này. Thứ duy nhất họ cần là lòng hy sinh và dâng hiến.

Bà lập ra Hội nữ tu truyền giáo nhân ái có tài sản hơn 400 triệu USD, nhưng cuộc đời Bà lại luôn sống trong nghèo khổ. Nơi Bà ở chỉ có hai đồ điện gia dụng: cái đèn và cái điện thoại. Toàn bộ tài sản của Bà là bức tượng Chúa Giê-su, 3 bộ quần áo, 1 đôi giầy xăng-đan. Bà cố gắng khiến mình trở thành người nghèo để phục vụ cho người nghèo nhất, các tu sĩ nam và nữ của Bà đều nguyện làm những người nghèo, vì chỉ như thế thì những người nghèo được họ phục vụ mới cảm thấy mình được tôn trọng.

 

Trong tâm niệm của Bà, cho tình yêu và sự tôn trọng
còn quan trọng hơn cả cho lương thực và quần áo.

Bà có hơn 600 tổ chức chi nhánh tại 127 quốc gia. Bà phát triển tổ chức từ thiện trên toàn thế giới với tốc độ nhanh nhất mà hiệu quả cao nhất. Chỉ trong năm 1960, Bà đã lập ra 26 trung tâm thu nhận trẻ em trên toàn Ấn Độ.

Thế nhưng tổng bộ của Bà chỉ có hai nữ tu và một cái máy đánh chữ kiểu cũ. Văn phòng làm việc của Bà chỉ có một cái bàn, một cái ghế. Bà tiếp đón người đến thăm trên khắp thế giới luôn tại nơi làm việc: khu bình dân, viện mồ côi, nhà thương cho người sắp qua đời, viện cho người bệnh hủi, nơi thu nhận người bệnh AIDS… Khách của Bà có: giới ngân hàng, doanh nhân, chính trị gia, sinh viên, diễn viên, người mẫu, tiểu thư nhà giàu, thống đốc bang của Mỹ…

Hiệu trưởng Đại học Đài Loan Lý Gia Đồng cũng từng từ ngàn dặm xa xôi đến với Bà để làm những việc cả đời ông hiếm khi phải làm: rửa chén, mặc quần áo cho bệnh nhân, đun nước nấu ăn, giặt đồ, đưa thuốc, vận chuyển thi thể… Ông nói:

“Đến giờ tôi mới biết xưa nay tôi luôn trốn tránh những nỗi bất hạnh và bần cùng của con người, xưa nay tôi chưa có tình yêu thực sự.”

Sau này Nam Tư xảy ra nội chiến. Nữ tu Têrêsa lại đi hỏi một vị tướng chỉ huy cuộc chiến. Bà nói, phụ nữ và trẻ em trong khu chiến sự không thoát được. Vị tướng kia trả lời: “Nữ tu à, tôi muốn ngừng chiến nhưng đối phương không muốn, tôi cũng không còn cách nào”. Têrêsa nói: “Vậy thì tôi đành phải đi!” Thế là Têrêsa đi vào trong khu chiến sự. Hai bên vừa nghe nữ tu Têrêsa đi vào khu chiến sự liền ngay lập tức ngừng bắn. Sau khi Bà đưa phụ nữ và trẻ em ra, hai bên lại bắn nhau tiếp.

Sau khi tin tức này truyền đến Liên Hiệp Quốc, Tổng Thư ký Kofi Annan ca ngợi: Việc thế này đến tôi cũng làm không được. Trước đây Liên Hiệp Quốc từng mấy lần can thiệp nhưng vẫn không cách nào khiến nội chiến Nam Tư ngừng bắn. Từ đó có thể thấy sức mạnh nhân cách của nữ tu Têrêsa có sức thuyết phục thế nào.

 

Khi Bà qua đời tại Ấn Độ (05/9/1997), Tổ quốc của Bà muốn đưa Bà về nước an táng, nhưng Thủ tướng Ấn Độ đã đặc biệt gọi cho lãnh đạo Albania mong để Bà an táng tại Ấn Độ. Người Ấn Độ xem sự qua đời của Bà là “mất đi một người mẹ”. Thủ tướng Ấn Độ nói:

Bà là vị thiên sứ hiếm thấy, là biểu tượng của ánh sáng và hy vọng. Bà đã lau nước mắt cho hàng hà sa số những người nghèo khổ. Bà đã mang đến cho nước Ấn Độ niềm vinh hạnh to lớn.

 

Ấn Độ làm quốc tang cho Bà. Ngày đưa tang, trên người Bà phủ một lá cờ Ấn Độ. Thi hài của Bà được 12 người Ấn Độ khiêng. Tất cả những người Ấn Độ có mặt đều quỳ xuống, gồm cả Thủ tướng Ấn Độ. Khi thi hài của bà đi qua các phố phường, toàn bộ người Ấn Độ trên những tòa nhà hai bên đường đều xuống dưới quỳ trên mặt đất để thể hiện niềm tôn kính cao nhất với vị Thiên sứ của tình yêu.

Không đầy hai năm sau ngày qua đời, do sự thánh thiện mà mọi người đã đồng thanh ca ngợi và những báo cáo về các ơn thiêng nhận được qua Mẹ, nên Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho phép tiến hành xem xét hồ sơ phong thánh cho Mẹ. Ngày 20 tháng 12 năm 2002, ngài phê chuẩn sắc lệnh công nhận nhân đức anh hùng và các phép lạ của Mẹ.

Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được nâng lên hàng chân phước (lễ kính vào ngày 05 tháng 9). Mẹ là người được phong chân phước nhanh nhất trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay: chỉ 6 năm sau ngày qua đời. Trước Mẹ, thánh Gioan Bosco và thánh Maximilian Kolbe được phong chân phước 30 năm sau ngày qua đời và là những người được phong chân phước nhanh nhất.

Chân phước Têrêsa thành Calcutta - một người của toàn thể nhân loại, mang dòng máu Albani, có quốc tịch Ấn độ và công dân danh dự của Hoa kỳ, nhưng lại xóa mình đến nỗi ít ai còn nhớ đến cái tên khai sinh Agnes Gonxha Bojaxhiu - mãi mãi là hình ảnh của một Kitô hữu có một đức tin không hề lay chuyển, một đức cậy bất chấp phong ba và một đức ái vượt mọi biên thùy. Lời đáp trả trước tiếng gọi của Chúa Giêsu "Hãy đến làm ánh sáng cho Thầy" đã biến người thành một nhà Thừa Sai Bác Ái, một “người mẹ của kẻ nghèo”, một biểu tượng cho lòng thương cảm của Thiên Chúa đối với con người và một bằng chứng sống động cho thấy rằng Chúa Giêsu từng ngày khắc khoải chờ đợi tình yêu của mỗi một linh hồn.

Theo NTDTV

 


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com