"Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con"
2 Lạy CHÚA, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt,
không để quân thù đắc chí nhạo cười con.
4 Lạy CHÚA, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên,
tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống.
5 Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng CHÚA,
cảm tạ thánh danh Người.
6 Người nổi giận, giận trong giây lát,
nhưng yêu thương, thương suốt cả đời.
Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống,
hừng đông về đã vọng tiếng hò reo.
11 Lạy CHÚA, xin lắng nghe và xót thương con,
lạy CHÚA, xin phù trì nâng đỡ.
12 Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng.
13 Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng.
Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ,
xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu.
Bài thánh vịnh 29 (30) này rất ngắn chỉ có 13 câu, phải biết cốt truyện ẩn dưới toàn bài để hiểu rõ hơn. Thì đây. Hãy tưởng tượng một người té xuống dưới đáy giếng: người ấy kêu la, van xin, gọi cầu cứu … đưa ra những lý lẽ để người ta chịu đến cứu (đại loại như: sống tôi còn có ích hơn là chết!) Hình như có người không phiền gì nếu để anh ta ở luôn dưới đáy giếng, mà còn cười nhạo anh ta nữa… Anh ta tiếp tục kêu cầu cứu, sau cùng cũng có người thương hại… Có người nghe tiếng kêu của anh, đến giải thoát anh, kéo anh lên. « Người » ấy phải viết chữ hoa, chính là Thiên Chúa. Một khi lên khỏi giếng, trở về ánh sáng, trở về sự sống, người ấy tung hô nỗi vui mừng: « 3 Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ, con kêu lên cùng Chúa, và Ngài đã cho con bình phục. 4 Lạy CHÚA, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên…5 Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng CHÚA, cảm tạ thánh danh Người »
Thật ra, như trong mọi thánh vịnh, có hai mức độ phải hiểu: ở đây câu truyện kể ra là một người té xuống đáy giếng, thế nhưng chỉ là một dụ ngôn. Sâu xa hơn phải hiểu đây là tiếng nói, hay đúng hơn tiếng hát của cả một dân tộc tung hô nỗi vui mừng khi về xứ sau bao nhiêu năm lưu đày Ba-by-lon… cũng như khi xưa đã ca hát, nhảy múa mừng vui sau khi vượt qua được Biển Đỏ. Cuộc lưu đày Ba-by-lon được sánh như té xuống giếng không đáy, trong vực sâu… tình trạng như nhiều người lúc ấy tưởng rằng không bao giờ It-ra-en có thể trỗi dậy được. Trong dân chúng có người rất thất vọng… có kẻ lại không thấy mình thiệt thòi gì còn cười khỉnh dân tộc này bị suy sút…
Trong suốt giai đoạn bị thử thách ấy, dân chúng được nâng đỡ bởi những kinh sư, những ngôn sứ nên giữ được hi vọng, cố gắng kêu cầu cứu: « 11 Lạy CHÚA, xin lắng nghe và xót thương con,lạy CHÚA, xin phù trì nâng đỡ ». Trong lời cầu nguyện, họ không ngần ngại dùng những biện luận, đại loại như câu 10: « 10 Chúa được lợi gì khi con phải chết, được ích chi nếu con phải xuống mồ? ». Đây có ý nói về việc phục hưng dân tộc sau khi đi đày trở về xứ, được miêu tả với những thể văn dựa vào óc tưởng tượng: dân chúng được ví như một tử tù, tưởng chừng dân tộc này sẽ bị xoá khắp bản đồ. Khi trở về tưởng như kẻ chết hiện về. Khi hát bài thánh vịnh này không ai tưởng tượng một ngày nào có sự phục sinh cá nhân: trong bầu khí từ Ba-by-lon trở về. Các tài liệu Thánh Kinh khác, như thị kiến Ê-dê-ki-en các xương khô, được miêu tả cũng trong tinh thần này: sự phục hưng dân tộc (khi từ Ba-by-lon trờ về) cũng được ví như sự phục sinh. Về sau, khi đức tin qua Thánh Kinh bước đến giai đoạn quyết định và đón nhận mặc khải đức tin qua sự phục sinh. Các bài này, sau khi đọc lại với ánh sáng của Tân Ước được khám phá trong ấy ý nghĩa sâu xa mới.
« 12 Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng »… kể từ nay, những ai tin vào sự phục sinh, dù là Do Thái hay Ki-tô hữu, câu này mang một ý nghĩa mới: làm cho chúng ta buộc miệng ca lên Alleluia… vì đó là ý nghĩa của chữ Alleluia trong truyền thống Do Thái! Trong lời suy niệm của các Giáo sĩ Do Thái về chữ Alleluia, có một đoạn tuyệt vời, chúng ta nên xem lại mỗi lần chúng ta hát lên chữ Alleluia: « Thiên Chúa đem ta từ cảnh tôi đòi đến tự do, từ u buồn đến niềm vui, từ tang tóc đến hân hoan, từ bóng tối đến ánh sáng chiếu loà, từ kiếp tôi đòi được Cứu Độ. Vì thế hãy hát lên Alleluia! »
Thế nhưng ta có thể bất cẩn té xuống đáy giếng, không hay biết, đó là trường hợp It-ra-en, đây là điều tác giả bài Thánh Vinh muốn nói, đó chính là bài học lớn rút ra từ việc bị lưu đày Ba-by-lon. Trước đó, It-ra-en tin tưởng vào cuộc sống: « 7 Thuở được yên vui, có lần tôi tự nhủ: mình sẽ chẳng bao giờ nao núng! » … Mặc dù các tiên tri đã hết lời mà cũng không thể nào thành công lay dân tộc này thức dậy khỏi giấc ngủ vô tư. Trong những năm lưu đày bên Ba-by-lon, lúc bấy giờ có dịp tha hồ suy gẫm về các nguyên nhân đưa đến các thảm họa và họ tự hỏi, có phải chính vì thái độ này đưa đến tình cảnh đau đớn của dân tộc ngày nay. Bài thánh vịnh vang lên như lời cảnh báo: « Nhưng khi Ngài vừa ẩn mặt đi, con liền thấy bàng hoàng sợ hãi » (c8). Giải pháp duy nhất để tránh khỏi sa ngã nữa là từ nay trung tín với Giao Ước: « Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ,xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu »
***