"Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình"
1 Người công chính, hãy reo hò mừng CHÚA,
kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen.
12 Hạnh phúc thay quốc gia được CHÚA làm Chúa Tể,
hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp.
18 CHÚA để mắt trông nom người kính sợ Chúa,
kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương,
19 hầu cứu họ khỏi tay thần chết
và nuôi sống trong buổi cơ hàn.
20 Tâm hồn chúng tôi đợi trông CHÚA,
bởi Người luôn che chở phù trì.
22 Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy CHÚA,
Khi nghe câu « tình thương CHÚA chan hoà mặt đất » (c 5b): đây là một câu tuyên xưng đức tin rất đẹp! Phải mất suốt một hành trình dài Chúa mới mặc khải cho loài người một thực tế căn bản: Chúa là Tình Yêu và trái đất (phải hiểu là mọi tạo dựng) chan hoà tình thương của Ngài.
Và tôi tưởng đây là điều đặc biệt của người tín hữu: họ trải qua cuộc sống với những niềm vui hay thử thách cũng quả quyết rằng, dù sao đi nữa mặt đất chan hoà tình yêu của Chúa.
Không phải vì thế mà trên mặt đất đâu đâu cũng có tình yêu! Không có tình yêu hoàn vũ, và lúc nào hạnh phúc cũng đúng hẹn. Hiện nay điều chắc chắn là Thiên Chúa nhìn vũ trụ và loài người với tình yêu thương. Còn sau đó thì chưa hoàn tất, nhưng chính sứ mạng của toàn công trình tạo dựng là nơi ngự trị của tình yêu, của lề luật của công chính. Nên đọc nguyên câu: « 5 Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương CHÚA chan hoà mặt đất »
Chúng ta có thể nói tình Chúa yêu nhân loại cũng như thế gian, đó cũng là ý nghĩa của câu nhắc lại về sự tạo dựng :
« 6 Một lời CHÚA phán làm ra chín tầng trời,
một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú.
9 Vì Người đã phán, và muôn loài xuất hiện,
Người ra lệnh truyền, tất cả được dựng nên »
Nhưng Chúa không chỉ hài lòng tạo dựng vũ trụ và loài người một ngày nọ rồi bỏ mặc sau đó; từ bình minh của thế giới Ngài chăm sóc chúng ta mỗi lúc, « 18 CHÚA để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương »
Sự xác tín của đức tin dựa chắc vào một trải nghiệm, vào sự chăm chú theo dõi của Ngài qua bao thế kỷ. Từ Ap-ra-ham, I-sa-ác và Gia-cóp, từ Mô-sê đến bụi gai rực lửa khi rời Ai-cập, và tiến về miền đất hứa… và tôi có thể kể lại từng sự kiện này đến sự kiện khác của lịch sử dân Chúa chọn. Mỗi giai đoạn ai cũng đều biết và trải nghiệm rằng Chúa luôn luôn chăm sóc và mặt đất chan hoà tình yêu của Ngài.
Tôi xin trở lại câu đáng ngạc nhiên sau đây: « 18 CHÚA để mắt trông nom người kính sợ Chúa kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương » Hai điều đáng chú ý: Điều thứ nhất chúng ta ở đây có định nghĩa của chữ « kính sợ ». Hãy hiểu: những kẻ kính sợ Thiên Chúa là chính những ai trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, và trông cậy vào Ngài trong mọi tình huống.
Điều thứ hai chúng ta có thể ngạc nhiên với cách nói: « 18 CHÚA để mắt trông nom người kính sợ Chúa kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương »; chúng ta có thể tự hỏi thế còn những người khác, những người không có đức tin ? Chúa không chăm sóc họ sao ? Có chứ, Ngài chăm sóc mọi con cái Ngài, thế nhưng những ai ý thức thì bấy giờ mới biết và có thể nói lên.
Điều kỳ diệu khác của bài thánh vịnh này, là nói lên tầm quan trọng của lề luật! Dân Do Thái yêu chuộng Lề Luật của họ đôi khi làm chúng ta ngạc nhiên. Đối với họ đó là lẽ tự nhiên vì Lề Luật thể hiện sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với con cái Ngài: Lề Luật đồng hành với chúng ta như luật giao thông bảo vệ chúng ta khỏi tai nạn và những con đường cấm. Lề Luật được xem là món quà của tình yêu Thiên Chúa.
Và không phải một điều ngẫu nhiên mà bài thánh vịnh này gồm 22 câu (tương ứng với 22 chữ cái của tiếng Do Thái), điều này để tôn vinh Lời Chúa bao gồm trọn đời chúng ta từ A tới Z
Kể từ nay đối với người có đức tin, thái độ đúng đắn nhất, cách duy nhất kính trọng Chúa là vâng theo các điều răn của Ngài, vì chúng ta biết các điều ấy do bởi tình yêu. Đó chính là kinh Tin Kính của dân Do Thái: « 4 Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. 5 Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em) » (Đnl 6, 4-5). Nên hiểu như thế này « Hãy yêu Ngài, hãy tin cậy vào Ngài và tuân theo lề luật và Lời của Ngài ». Đấy cũng là nghĩa thứ hai của chữ « Lời ». Câu « 4 Vì lời CHÚA phán quả là ngay thẳng » là để nhắc lại Lời sáng tạo trong Sáng Thế và Lề Luật Chúa ban.
Xin đừng quên công trình sáng tạo được dân It-ra-en tôn vinh nhất không phải là trái đất, mà là sự tạo nên dân Chúa chọn. Mỗi thời trong lịch sử It-ra-en Lời của Thiên Chúa ban cho sự tự do và ban cho họ mãnh lực để chiếm lấy tự do; tự do khỏi mọi bụt thần, tự do khỏi mọi ách nô lệ.
Bài này cũng đuợc Giáo Hội đề nghị đọc ngày Lễ Chúa Ba Ngôi nhưng nhìn thoáng qua, chúng ta không thấy dấu hiệu gì về Chúa Ba Ngôi. Phải đợi đến ngày Chúa Ki-tô đến mới hiểu rằng Lời Chúa được nghe nhiều lần trong bài thánh vịnh này là một NGƯỜI: « 1 Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. 2 Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. 3 Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành.» (Ga 1-3). Điều này làm sáng nghĩa những xác định của bài thánh vịnh:
« 6 Một lời CHÚA phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú. 9 Vì Người đã phán, và muôn loài xuất hiện, Người ra lệnh truyền, tất cả được dựng nên »
***