"Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ chúng tôi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
1 Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy,
vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông,
2 hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ,
và hân hoan múa nhảy reo hò.
Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng,
vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron.
Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của ĐỨC CHÚA,
và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta.
3 Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ,
cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng.
4 Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ!
Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục,
ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.
Chính Người sẽ đến cứu anh em."
5 Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.
6 Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
10 Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về,
tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo,
mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu.
Họ sẽ được hớn hở tươi cười,
đau khổ và khóc than sẽ biến mất.
Câu trung tâm của bài này là: « 4 Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em." », có nghĩa là sự báo phục của Chúa là cứu độ chúng ta. Có lẽ nên viết: « ngày báo phục,… Thiên Chúa: Chính Người sẽ đến cứu anh em » hay rõ hơn nữa: « sự báo phục của Thiên Chúa: Chính Người sẽ đến cứu anh em ».
Trọn bài đọc hôm nay ta thấy toàn là những lời hứa: lời hứa chữa lành, chữa lành cho người mù, kẻ câm điếc, người què… « 5 Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. 6 Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. » Nhất là hứa cho người lưu đày được trở về xứ: « 10 Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về, tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất ». Thật vậy, khi I-sa-i-a nói lên những lời này, dân It-ra-en còn đang lưu đày ở Ba-by-lon, sau khi trải qua cuộc bách hại tàn khốc, trong thời gian thành Giê-ru-sa-lem bị vây hãm do quân đội của Na-bu-cô-đô-nô-so. Năm mươi năm lưu đày: quá đủ để mất hết can đảm. Không phải ngẫu nhiên I-sa-i-a nói: « 3 Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. 4 Hãy nói với những kẻ nhát gan: Can đảm lên, đừng sợ! »
Năm mươi năm ước mơ trở về xứ, không ai còn dám tin nữa. Và bỗng nhiên vị tiên tri nói: « Sắp đến rồi ». Muốn trở về xứ, con đường thẳng nhất từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem phải qua sa mạc A-ra-bi-a. Nhưng hành trình vượt qua sa-mạc được I-sa-i-a miêu tả như thật sự một chuyến đi vinh thắng… hơn thế nữa, một cuộc lữ hành vĩ đại: vùng hoang địa trở thành hoan hỉ, vùng đất khô cằn nay mừng vui, tiếng Do Thái còn có nghĩa « hớn hở mừng vui »… Các thánh vịnh không dùng chữ gì khác hơn để miêu tả lời nguyện trong những cuộc hành hương uy nghi như thế. Sa mạc trở nên đẹp… đẹp như rừng núi Li-băng, như các đồi non xứ Các-men, như cánh đồng ven bờ sông Xa-rôn... Ngày trở về như cuộc hành hương tạ ơn của những người thoát nạn. Câu sau đây « 10 Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về, » nên được hiểu theo hai chiều kích: trước hết họ trở về xứ, nhưng sâu xa hơn họ quay trở về với Thiên Chúa. Sự trở về này là sự hòa giải với Thiên Chúa, trở về với Giao Ước: chữ dùng ở đây là « hoán cải », « quay đầu ngược lại ».
Và tất cả những điều ấy là công trình của Chúa: « Chính Người sẽ đến cứu anh em… 10 Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về ». Câu số 10 I-sa-i-a ngụ ý nói đến việc « giải thoát » (chuộc) theo lề luật thời ấy: khi một người mang nợ phải bán nhà bán đất để trả nợ, người bà con gần nhất trả thay cho chủ nợ và giữ sở hữu ấy (Lv 25, 25). Nếu một người lâm cảnh túng thiếu mà phải bán thân mình vì không có của cải, cũng như thế, người bà con gần nhất có thể trả thay để giải thoát, thời ấy gọi là « nhận trách nhiệm ». Vì thế chữ « chuộc » trong Thánh Kinh có nghĩa là « giải thoát ». Chữ « cứu độ » có nghĩa là « giải thoát người bà con gần nhất ». Trong nghĩa ấy, Chúa nói nhiều lần: « Ta lãnh trách nhiệm cho anh em ». Trong trường hợp sát nhân, người bà con gần nạn nhân nhất có bổn phận báo thù (Ds 35, 12). Cũng trong nghĩa ấy Thiên Chúa dùng trong câu thứ 4 chữ: « báo phục », điều này nói lên Thiên Chúa là « người bà con » gần nhất Ít-ra-en, Ngài sẽ là kẻ báo phục, tức là Ngài không thể không quan tâm, mặt khác Ngài sẽ bảo vệ quyền lợi dân Ngài chống lại ai muốn làm hại, Ngài sẽ can thiệp để giải thoát.
Thật ra đây là ý nghĩa rất tích cực của chữ « báo phục ». Đối với người hiểu Thánh Kinh, rõ ràng Thiên Chúa không báo thù cho chúng ta, Ngài không chống lại ai nhưng chống lại sự dữ hoành hành nơi ta, kéo chúng ta xuống vực thẳm. Báo phục của Chúa là từ bỏ sự dữ, như tiên tri I-sa-i-a nói: « 5 Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. 6 Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. »
Nhưng cũng phải nói, chúng ta không phải lúc nào cũng nghĩ như thế! Bài của ngôn sứ I-sa-i-a đến rất trễ trong Thánh Kinh. Phải có một thời gian dài trong lịch sử mới có được như thế. Lúc khởi đầu, dân chúng tưởng tượng một Thiên Chúa giống hình ảnh con người, một Thiên Chúa báo thù như loài người. Dần dần với sự Mạc Khải tiệm tiến của Thiên Chúa, nhờ lời rao giảng của các ngôn sứ, con người mới bắt đầu khám phá thế nào là Thiên Chúa chứ không như một Thiên Chúa từ óc tưởng tượng mà ra. Vì thế chữ « báo phục » vẫn còn đó nhưng ý nghĩa đã thay đổi hẳn. Chúng ta đã chứng kiến nhiều lần sự thay đổi hoàn toàn ý nghĩa một từ ngữ trong Thánh Kinh: ví dụ như chữ « của lễ hiến tế » hay « kính sợ Thiên Chúa » .
Phải qua giai đoạn nhiều thế kỷ mới có thể khám phá ra dung nhan thật của Thiên Chúa, một Thiên Chúa khác biệt chúng ta: « 8 Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta » (Is 55, 8) - một Thiên Chúa chỉ là tình yêu và lòng thương xót mọi người, không trừ một ai, ngay cả người dữ - một Thiên Chúa: « chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống » (Êd 33, 11). Dần dần câu: « sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em. » thật sự có ý nói: « Thiên Chúa là người thân thuộc gần nhất anh em, Ngài yêu anh em hơn mọi thụ tạo trên thế gian, và dù cho anh em có bị nhục mạ thế nào đi nữa, về thể xác cũng như tinh thần, Thiên Chúa sẽ đến giải thoát anh em, để nâng anh em lên.
***
Tác giả: bà Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: http://www.eglise.catholique.fr/
Dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương