Câu xướng: Lạy Chúa, Chúa là Đấng cứu chuộc thế gian;
xin ban cho con nước hằng sống, để con không còn khát nữa.
-----------------
"Mạch nước vọt đến sự sống đời đời."
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.
Vậy, Người đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se.
6 Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống! "
8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn.
9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: "Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao? " Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri.
10 Đức Giê-su trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: "Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống."
11 Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?
12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy."
13 Đức Giê-su trả lời: "Ai uống nước này, sẽ lại khát.
14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời."
15 Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước."
16 Người bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây."
17 Người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng." Đức Giê-su bảo: "Chị nói: "Tôi không có chồng" là phải,
18 vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng."
19 Người phụ nữ nói với Người: "Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ. ..
20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa."
21 Đức Giê-su phán: "Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem.
22 Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái.
23 Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.
24 Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật."
25 Người phụ nữ thưa: "Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự."
26 Đức Giê-su nói: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây."
27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: "Thầy cần gì vậy? " Hoặc "Thầy nói gì với chị ấy? "
28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta:
29 "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao? "
30 Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: "Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa."
32 Người nói với các ông: "Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết."
33 Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng? "
34 Đức Giê-su nói với các ông: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.
35 Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!
36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng.
37 Thật vậy, câu tục ngữ "kẻ này gieo, người kia gặt" quả là đúng!
38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ."
39 Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm.
40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày.
41 Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa.
42 Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian."
Ngày nay, nước máy mang lại nhiều lợi ích. Chúng ta không còn những cuộc gặp gỡ bên bờ giếng: giếng nước giữa sa mạc hay giếng nước trong làng. Biết bao nhiêu mối giao kết được thắt nối bên bờ giếng, bao nhiêu cuộc hôn nhân trong Thánh Kinh? Cũng bên bờ giếng nước người làm thuê cho ông Áp-ra-ham đã gặp Rê-béc-ca, sau này trở nên vợ của I-sa-ắc; bên bờ một giếng nước ông Gia-cóp phải lòng với Ra-khen; bên bờ một giếng nước xứ Pa-lét-tin Chúa Giê-su bắt đầu một cuộc đàm thoại nổi tiếng nhất trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an, cuộc đàm thoại với một người gọi là người phụ nữ Sa-ma-ri.
Chúa Giê-su đi ngang qua vùng Sa-ma-ri, trên đường đi đến Ga-li-lê. Chúa lìa xứ Giu-đa, ở đấy các người Pha-ri-sêu bắt đầu dò xét Ngài. « Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa. » Tại sao Thánh Gio-an nói rõ giờ lúc ấy ? Có phải là giờ đi lấy nước giếng hay là giờ sáng nhất và ánh sáng thế gian vừa chiếu rọi xuống xứ Sa-ma-ri, mặc khải Đấng Mê-si-a ?
Vì dưới mắt các người Pha-ri-sêu, Sa-ma-ri là nơi cần phải hoán cải nhất. Mối bất hòa giữa Giu-đa và Sa-ma-ri đã từ lâu: khởi đầu từ quân xâm lược Át-sua đánh chiếm (các bạn có thể gọi quân Ni-ni-vơ). Thành phố Sa-ma-ri bị đánh chiếm năm 721 trước CN, lúc ấy Giê-ru-sa-lem còn được ngoài vòng chiến. Thế nhưng chính sách quân chinh phục là áp đặt các cuộc di dân: họ đày dân Sa-ma-ri đi nơi khác và cho các dân bị thua trận nơi khác vào cư ngụ trong thành và xứ Sa-ma-ri. Thư Thứ Hai các Vua nói rõ: « Vua Át-sua đã đưa người từ Ba-by-lon, Cu-tha, A-va, Kha-mát và Xơ-phác-va-gim đến định cư ở các thành xứ Sa-ma-ri, thế vào chỗ con cái Ít-ra-en. Họ chiếm Sa-ma-ri và ở trong các thành của xứ này. » (2V 17, 24). Dưới mắt dân Chúa chọn, những người mới đến là những người ngoại, họ du nhập các tôn giáo của họ cùng với các thần thánh của họ. Từ đấy nảy sinh một sự ngờ vực kinh khủng trong dân xứ Giu-đa đối với những người dị giáo này. Sự nghi kỵ càng ngày càng trầm trọng với thời gian, thế kỷ này sang thế kỷ khác, vào thời Chúa Giê-su thì tình trạng ấy được cảm nhận rõ ràng trong tâm trí mọi người. Lý do đó giải thích thái độ ngạc nhiên người phụ nữ Sa-ma-ri: một người Do Thái mà hạ mình hỏi xin mình một điều gì ?
Nhưng chỉ cần bà lắng nghe, Chúa Giê-su có thể đề nghị cho một món quà thật sự: « Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị » (c10). Ân huệ Thiên Chúa là chính Chúa Giê-su, là nhận biết Ngài. Chúa Giê-su còn lặp lại trong lời cầu nguyện cuối cùng, cũng trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an: « Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô. » (Ga 17, 3). Mặc dù họ là những người dị giáo trước mắt những người Pha-ri-sêu, người Sa-ma-ri cũng chờ đợi Đấng Mê-si-a, và họ biết rằng Ngài sẽ đến mặc khải cho họ mọi thứ. Người phụ nữ Sa-ma-ri nói với Chúa Giê-su: « Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự. » (Ga 4, 25a). Chỉ cần vỏn vẹn chị chấp nhận đối thoại, vì chị cởi mở, vì chị thành tâm hỏi để muốn biết làm gì để vui lòng Thiên Chúa, là chị sẽ được mặc khải về Đức Mê-si-a: « Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây » (Ga 4, 25b).
Suốt bài tường thuật Thánh Gio-an cho chúng ta hiểu, với Đấng Mê-si-a đến, mặt thế giới sẽ được thay đổi: mọi vấn nạn sẽ có giải đáp, thời gian được hoàn tất. Thời điểm tất cả lịch sử nhân loại nhắm tới đã đến. Kể từ nay việc tôn thờ Thiên Chúa không còn là vấn đề nơi chốn, đền thờ, hay núi này núi nọ. Nước hằng sống sẽ vọt lên từ đáy lòng người có lòng tin: « Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." » (c14). Hẳn các bạn chú ý Chúa Giê-su nhấn mạnh ở chữ « cho »: đối với Thiên Chúa tình yêu, mọi sự là quà cho nhưng không, là tha thứ. Người phụ nữ Sa-ma-ri biết mình kém nhân đức, đơn sơ đón nhận (có lẽ đơn sơ hơn nhiều người ?) món quà và sự tha thứ. Và khi Chúa Giê-su nói mạch nước vọt lên từ lòng người tín hữu, từ nay nước ấy có thể làm cho người khát không còn khát nữa. Dù sao đó là những gì người phụ nữ Sa-ma-ri cảm nhận và chị đi loan báo khắp thành cho họ biết: « Người thật là Đấng cứu độ trần gian. » (Ga 5, 42)
***
Tác giả: bà Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: http://www.eglise.catholique.fr/
Dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương