"Cơn thịnh nộ và lòng từ bi của Chúa được tỏ bày qua sự lưu đày và giải phóng của dân tộc".
Trích sách Sử Biên Niên quyển thứ hai.
14 Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà ĐỨC CHÚA đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế.
15 ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của tổ tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người.
16 Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến ĐỨC CHÚA bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa.
19 Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giê-ru-sa-lem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá.
20 Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Ba-by-lon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba-tư ngự trị.
21 Thế là ứng nghiệm lời ĐỨC CHÚA phán, qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn.
22 Năm thứ nhất thời vua Ky-rô trị vì nước Ba-tư, để lời ĐỨC CHÚA phán qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được hoàn toàn ứng nghiệm, ĐỨC CHÚA tác động trên tâm trí Ky-rô, vua Ba-tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau:
23 "Ky-rô, vua Ba-tư, phán thế này: "ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên. ..!"
Hai sách Niên Biên có thể ví như bộ sách tóm lược lịch sử It-ra-en, từ đời vua Đa-vít đến hết cuộc lưu đày Ba-by-lon. Các sách này được cùng tác giả viết các sách Et-ra và Nê-hê-mi-a khoảng 300 năm trước CN. Đề tựa « Sử biên » chỉ có nghĩa phỏng chừng, vì đây không phải một quyển sách có tính cách phóng sự hay lịch sử thật sự. Mục đích của những sách này trước hết nặng phần thần học : tác giả sách, được gọi là « sử biên » không chú trọng lắm đến các sự kiện nhưng đến những bài học rút ra từ những sự kiện ấy ( Có thể gọi « bài học luân lý » từ câu chuyện)
Đặc biệt hạnh kiểm của mỗi đời vua đều lần lược được đánh giá theo sự trung tín hay bất trung đối với Luật của Thiên Chúa hoặc có vâng lời các ngôn sứ hay không ? Tuy thế, tất cả các sự kiện được lược kê trong tài liệu được đọc ngày nay hoàn toàn có thật. Đây là triều đại vua Xít-ki-gia : Xít-ki-gia là một trong các đứa con trai của vua Giô-si-gia-hu, có tiếng là thánh thiện và trung tín với Lề Luật. Chính ngài là người đặc biệt khởi sự cải cách thật sự về đạo, và nhờ ngài mà một quyển sách quý được khám phá ra, sau này mang tên là Đệ Nhị Luật. Sau khi vua qua đời, hai đứa con trai của ngài lần lượt lên ngôi thế vì, nhưng cuộc cải tổ đã chấm dứt. Người sử biên chỉ viết vỏn vẹn « Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA » ( 2Nb 33,2) . Trong lúc ấy Pha-ra-ô và Na-bu-cô-đô-nô-xo tranh quyền bá chủ vùng này. Sau cùng Na-bu-cô-đô-nô-xo chiến thắng, vương quốc Giu-đa nhỏ bé có nhiều lần nỗi dậy nhưng đều bị đè bẹp.
Từ năm 598 Na-bu-cô-đô-nô-xo làm chủ thành Giê-ru-sa-lem. Hắn cướp phá đền thờ ; hắn tăng phong rồi hạ chức các vua cốt để hạ gục những người theo hắn, và bắt đầu bắt đi đày hằng loạt người. Sách Vua thứ II kể rằng tất cả Giê-ru-sa-lem bị đi đày. Tất cả nhà lãnh đạo, những người giàu có - hết thảy mười ngàn người - tất cả thợ kim khí, thợ ổ khoá và dĩ nhiên tất cả quân nhân, chỉ còn vỏn vẹn những người dân thấp hèn ở lại. Hắn đặt Xít-ki-gia làm vua trị vì từ 598 đến năm 587. Nhưng vua này chẳng dễ bảo gì hơn những vua khác, với Thiên Chúa, với các tiên tri của Ngài và cả đối với đấng tối cao thời ấy là Na-bu-cô-đô-nô-xo.
Năm 587, Na-bu-cô-đô-nô-xo bao vây lần thứ hai Giê-ru-sa-lem và đè bẹp cuộc nổi loạn của Xít-ki-gia. Trận vây thành Giê-ru-sa-lem kéo dài 18 tháng trước khi bị phá hủy hoàn toàn. Phần nhỏ dân còn sống sót bị đi đày. Thông thường cuộc lưu đày sang Ba-by-lon được kể khởi đầu vào năm 587. Cuộc lưu đày kéo dài cho đến khi Na-bu-cô-đô-nô-xo vua Ba-by-lon bị đè bẹp bởi một cường quốc mới của Trung Đông là I-ran mà thời ấy còn được gọi là Ba-tư. Chính trị của Ky-rô vua Ba-tư, rất thuận lợi cho dân thành Giê-ru-sa-lem. Một cách dứt khoát, ông giải thoát tất cả những người di dân về bản xứ của họ. Dân Do Thái cũng được hưởng quyền này như mọi dân tộc khác. Không ai ngờ như thế nên người ta thấy đây là bàn
tay của Chúa. :
«22 Năm thứ nhất thời vua Ky-rô trị vì nước Ba-tư, để lời ĐỨC CHÚA phán qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được hoàn toàn ứng nghiệm, ĐỨC CHÚA tác động trên tâm trí Ky-rô, vua Ba-tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau:23 "Ky-rô, vua Ba-tư, phán thế này: "ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên. .. ! » ( 2Sb 36,22-23)
Thế nhưng tiên tri Giê-rê-mi-a đã nói gì ? Ngài chỉ nói những gì thuộc vai trò người ngôn sứ, nhắc lại không ngừng Lề Luật của Thiên Chúa và đe dọa những hình phạt ghê gớm nhất, nếu họ không hoán cải. Ngài rất thất vọng vì những gì ngài tiên báo đã xảy ra. Đối với tác giả sách Niên Biên tất cả điều ấy đều rõ ràng : Chúa đã nhẫn nại, luôn nhẫn nại, Ngài đã cảnh báo dân Ngài như báo cho ai đó đang đi trên bờ vực thẳm, thế nhưng cả chư dân lẫn vua không ai muốn nghe :
« Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà ĐỨC CHÚA đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế » ( 2Nb 36,14)
Khi đọc lại tiên tri Giê-rê-mi-a những lời khiển trách dân chúng nặng nề nhất là việc bóp méo hẳn Đạo Giao Ước với Thiên Chúa. Không những không giữ ngày Sa-bát, mà nhất là rơi vào thờ bụt thần, đó là điều tồi tệ nhất thời bấy giờ. Các điều răn với Thiên Chúa bị bãi bỏ…những điều răn với người khác cũng bị bãi bỏ. Thiên Chúa thì không bao giờ quên Giao Ước. Ngài luôn luôn là « Thiên Chúa của cha ông », từ thời các tổ tiên , Ap-ra-ham, I-da-ắc, Gia-cóp « ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của tổ tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người »
Cũng như Giê-rê-mi-a không ngừng cảnh báo :
“ Nhưng các ngươi lại ỷ vào những lời dối trá vô giá trị.9 Trộm cắp, giết người, ngoại tình, thề gian, đốt hương tế thần Ba-an và đi theo các thần lạ các ngươi không biết,10 rồi lại vào nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, đến trước mặt Ta mà nói: "Chúng ta được an toàn! ", sau đó cứ tiếp tục làm những điều ghê tởm ấy. Thế nghĩa là gì?11 Phải chăng các ngươi coi nhà này, coi nơi danh Ta được kêu khấn là hang trộm cướp sao? Ta, Ta thấy rõ hết - ( Gm 7, 9-11)
Không phải vì quyền lợi của Chúa mà Ngài luôn luôn nhắc lại các điều răn của Ngài qua các tiên tri. Giê-rê-mi-a có câu tuyệt vời sau đây :
«19 Có phải chúng xúc phạm đến Ta - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - hay là xúc phạm đến chính mình, làm cho mặt mình phải xấu hổ? » ( Gm 7,19)
Có nghĩa là dân được Chúa giải thoát lại rơi vào làm nô lệ cho các thần giả mạo và sa vào các hành động bất xứng với con người tự do. :
«chúng đã bỏ Ta là mạch nước trường sinh
để làm những hồ nứt rạn, không giữ được nước » ( Gm 2,13)
Mà họ còn cư xử với các ngôn sứ như thế này :
« 16…nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, ».
Điều gì phải tới đã tới : Thiên Chúa trung thành với Lời Ngài, hứa hạnh phúc nếu vâng theo các điều răn của Ngài, và đau khổ nếu bất tuân. Vì trung thành với Lời Ngài bắt buộc, cuối cùng Ngài phải hành động. :
« khiến ĐỨC CHÚA bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa »
Chúng ta ngạc nhiên thấy một bài Thánh Kinh rất gần Tân Ước rồi mà còn nói tới Thiên Chúa nổi giận. – như con người chúng ta có thể thả xuôi theo cơn giận - thế nhưng bầu khí lúc bấy giờ cần cách nói như thế : Nguy hại của bụt thần còn rõ ràng đó. Để đảm bảo đức tin vào Thiên Chúa duy nhất không còn phương pháp nào hơn là trút tất cả trách nhiệm vào mọi sự kiện đó : chẳng những tai hoạ bị lưu đày mà việc vua Ky-rô cho phép trở về Giê-ru-sa-lem. Ý thức thần học thời ấy chỉ cho phép nghĩ rằng, nếu Ngài không phải Chủ của các sự kiện ấy, tức là có những thần khác. Sau này, dần dần thể hiện Mặc khải về Thiên Chúa, người ta khám phá rằng những tình cảm như giận dữ, báo thù không thể nào có nơi Thiên Chúa, Đấng « Thật Khác », vì chỉ có một điều nơi Ngài là Tình Yêu.
Trong lúc chờ đợi người viết Biên Niên cũng tìm xác định được hai điều chính yếu của đức tin. Điều thứ nhất là Chúa là Thiên Chúa của các tổ tiên, mặc cho mọi bất trung của dân Ngài, và Chúa làm mọi sự để họ không rơi vào vực thẳm. Điều thứ hai là khi họ rơi dưới đáy vực thẳm, Ngài luôn có cách đem họ ra, vì không có gì mà không thể được đối với Thiên Chúa.
***