"Hãy dọn đường Chúa"
Trích sách Tiên tri I-sa-i-a.
1 Thiên Chúa anh em phán: "Hãy an ủi, an ủi dân Ta:
2 Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giê-ru-sa-lem, và hô lên cho Thành:
thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong,
vì Thành đã bị tay ĐỨC CHÚA giáng phạt gấp hai lần tội phạm."
3 Có tiếng hô:
"Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA,
giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng
cho Thiên Chúa chúng ta.
4 Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy,
mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống,
nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng,
chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu.
5 Bấy giờ vinh quang ĐỨC CHÚA sẽ tỏ hiện,
và mọi người phàm sẽ cùng được thấy
rằng miệng ĐỨC CHÚA đã tuyên phán."
9 Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao.
Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giê-ru-sa-lem,
hãy cất tiếng lên cho thật mạnh.
Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Giu-đa rằng:
"Kìa Thiên Chúa các ngươi!"
10 Kìa ĐỨC CHÚA quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền.
Bên cạnh Người, này công lao lập được,
trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên.
11 Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa,
tập trung cả đoàn dưới cánh tay.
Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng,
bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.
Bài này là một trong những đoạn tuyệt vời nhất sách Tiên tri I-sa-i-a: được gọi là «sách an ủi Ít-ra-en» vì ngay những chữ đầu là «Hãy an ủi, an ủi dân Ta». Câu này, chỉ câu này thôi cũng đủ là một Tin Mừng, một tin mừng tuyệt vời, gần như vô vọng cho những ai biết nghe! Vì lẽ, những chữ «dân Ta; Thiên Chúa của anh em» nhắc lại Giao Ước, giống như một cặp tình nhân lúc bất đồng, nhắc lại một tên riêng tư, gọi nhau lúc yêu đương, nói lên tình cảm còn thắm thiết. Vì lúc ấy, đây là một nghi vấn lớn nhất nơi những người bị lưu đày Ba-by-lon – tức là giữa năm 587 và 538 trước CN – họ tự hỏi: Thiên Chúa có bỏ rơi họ không; Thiên Chúa không còn giữ Giao Ước nữa hay sao…? Có lẽ, Ngài cũng đã chán chường những bất trung liên tục từ các cấp bậc. Tất cả mục đích của sách an ủi Tiên tri I-sa-i-a, là để nói lên không phải như thế. Chúa còn quả quyết rằng: «Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi» (Ed36, 28), đó là phương châm, hay đúng hơn là lý tưởng của Giao Ước.
«Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giê-ru-sa-lem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong» (c2) Tiên tri I-sa-i-a nói. Thế có nghĩa là thời nô lệ đã mãn. Đây là lời loan báo cuộc giải phóng và ngày trở về Giê-ru-sa-lem. «Thành đã đền xong,
vì Thành đã bị tay ĐỨC CHÚA giáng phạt gấp hai lần tội phạm» (c2). Theo luật Ít-ra-en, kẻ trộm phải trả gấp hai lần của đã đánh cấp (ví dụ hai con súc vật cho một đã lấy trộm). Bài viết theo thì quá khứ, đó là cách nói trừu tượng ngày giải phóng gần kề vì tội đã đền xong. Điều vị Tiên tri gọi là tội phạm, đó là những lúc không tuân giữ Giao Ước, thờ lạy bụt thần, không giữ ngày Sa-bát, hay các mục khác của Lề Luật, nhất là những lỗi với lẽ công bằng và - trầm trọng hơn thế nữa - khinh thị kẻ nghèo hèn. Dân tộc Do Thái luôn xem việc bị lưu đày là hậu quả của tất cả những điều bất trung ấy. Họ biết: một khi tách xa khỏi Lề luật Thiên Chúa, là tự gây khổ cho bản thân.
«Có tiếng hô» (c3) không có chỗ nào tác giả đoạn này nói rõ có tiếng hô từ ai. «Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Giu-đa rằng: Kìa Thiên Chúa các ngươi!» (Is40, 9) Chúng ta gọi đó là sách «I-sa-i-a thứ hai». «Có tiếng hô: Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA,» (c3). Trong lịch sử Ít-ra-en, đã có lần Thiên Chúa mở con đường trong sa mạc để dẫn dân Ngài từ nô lệ đến tự do (nên hiểu từ Ai-cập đến miền Chúa hứa); Tiên tri nói ở đây. Thế thì, bởi vì Thiên Chúa ngày xưa đã tháo gỡ dân Ngài được khỏi ách nô lệ Ai-cập, ngày nay Ngài cũng biết cách làm như thế khỏi ách nô lệ Ba-by-lon.
«…hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu.» (c3.4) Đó là một trong những điều thời ấy, kẻ chiến thắng thích thú làm, mở ra những công trường vĩ đại, xây một con đường khải hoàn đón vua vinh thắng trở về. Có điều còn tệ hơn thế nữa, hằng năm ở Ba-by-lon, họ mừng lễ thần Mardouk; nhân dịp này, dân Ít-ra-en phải ra sức thực hiện những công trường cầu đường: lấp hố, bạt các đồi, và ngay cả núi; biến những con đường nhỏ ngoằn ngoèo, thành những đại lộ rộng thênh thang…để chuẩn bị đón đoàn diễn hành, đi đầu là vua và các tượng bụt thần! Đối với người tín hữu Do Thái, đó là một sỉ nhục tột cùng và một điều xé lòng họ.
Vì thế, Tiên tri I-sa-i-a có sứ mệnh loan báo cho họ, chấm dứt thời nô lệ Ba-by-lon và việc hồi hương, ngài nói: Lần này anh em xây con đường chia cách Ba-by-lon và Giê-ru-sa-lem…Nhưng, không phải để cho bụt thần, mà để cho anh em và Chúa của anh em dẫn đầu! Sau này, ông Gio-an Tẩy Giả cũng dùng chính những từ ngữ này để minh họa một cách tượng hình, những việc chuẩn bị trước cho Đấng Mê-si-a đến: «Bấy giờ vinh quang ĐỨC CHÚA sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng ĐỨC CHÚA đã tuyên phán.» (c5) (câu này có thể được hiểu rằng, rốt cuộc mọi người rồi cũng nhận ra Thiên Chúa, và tất cả sẽ nhận thấy Ngài giữ lời hứa)
«Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giê-ru-sa-lem,» (c9) Hai câu này có một cấu trúc song song hoàn hảo, mục đích vỏn vẹn là để nhấn mạnh việc loan báo Tin Mừng ấy cho Si-on (tức là cho Giê-ru-sa-lem, dân chúng, chứ không phải cho thành Giê-ru-sa-lem). Liền sau đó là nội dung của Tin Mừng: «Kìa Thiên Chúa các ngươi!Kìa ĐỨC CHÚA quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên. Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.» (c10.11)
Hai hình ảnh kề bên nhau (một vua vinh thắng và một mục tử), thoáng qua đáng ngạc nhiên, nhưng một vị vua lý tưởng ở Ít-ra-en có hai phương diện đó: Một hiền vương là một mục tử biết quan tâm đến dân chúng, nhưng cũng là một vua vinh thắng kẻ thù, chính là để bảo vệ dân mình…Như một mục tử, dùng cây trượng đuổi thú rừng đe dọa đàn chiên.
Bài này nhìn chung, vang lên như một tin mừng tuyệt vời, qua tai những người đương thời của Tiên Tri I-sa-i-a vào thế kỷ thứ VI trước CN. Và đây, 500 hay 600 năm, sau khi ông Gio-an Tẩy Giả thấy Chúa Giê-su đến gần sông Gio-đan xin chịu phép rửa (Mc1), trong Bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay, ông nghe vang dội trong đầu, những lời này của Tiên tri I-sa-i-a, và ông được ngập tràn một xác tín chói lòa: Đây là Đấng quy tụ đàn chiên của Chúa Cha…Đây là Đấng sẽ biến những con đường ngoằn ngoèo thành những con đường ánh sáng…Đây là Đấng mang lại dân chúng nhân phẩm…Đây là Đấng mạc khải vinh quang (tức là sự hiện diện) Thiên Chúa. Nay hết rồi thời các tiên tri, vì Chúa đã ở cùng chúng ta!
Phần thêm :
«Bên cạnh Người, này công lao lập được,» (c10) (LND: công lao trong nguyên bản là chiến thắng) Trong Thánh Kinh khi nói đến sự chiến thắng của Chúa Giê-su, người Ki-tô hữu hiểu đó là chiến thắng sự chết.
***
Tác giả: bà Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: http://www.eglise.catholique.fr/
Dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương