"Vinh quang Chúa xuất hiện trên ngươi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
1 Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi.
2 Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả,
vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.
3 Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,
vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.
4 Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem,
tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi:
con trai ngươi từ phương xa tới,
con gái ngươi được ẵm bên hông.
5 Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ,
lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ,
vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả,
của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi.
6 Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha:
tất cả những người từ Sơ-va kéo đến,
đều mang theo vàng với trầm hương,
và loan truyền lời ca tụng ĐỨC CHÚA.
Đọc bài này, chúng ta có cảm tưởng I-sa-i-a đã nói tiên tri về Ba Vua tại Bê-lem! Ngày lễ Hiển Linh chúng ta có khuynh hướng nghĩ như thế. Nhưng không, I-sa-i-a luôn luôn nói cho dân cùng thời với ông. Hơn nữa ông nói 1 Đứng lên, bừng sáng lên Giê-ru-sa-lem hỡi! Chứ không phải Bê-lem hỡi (Chú thích người dịch: bản dịch Thánh Kinh được dùng bỏ đi cụm chữ « Giê-ru-sa-lem hởi »). Để dự kiến sau này sẽ có một tương lai vinh quang, chữ vinh quang tôi dùng không mấy quá đáng.
Các bạn hẳn nhận thấy chữ ánh sáng được lập đi lập lại suốt bài đọc này
1 Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả,
vinh quang Người xuất hiện trên ngươi…
3 Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,
Từ đó có thể suy ra bầu khí lúc đó tối tăm lắm! Tôi không muốn nói các Tiên tri thời đó thích thể văn nghịch lý! Không! Không phải thế, các ngài rèn luyện lòng cậy trông.
Nhưng, điều thứ nhất chúng ta suy nghĩ, tại sao bầu khí lúc đó tối tăm? Sau đó, chúng ta xét xem với những lý do gì mà nhà tiên tri mời gọi cậy trông?
Về bầu khí, tôi xin nhắc lại bối cảnh thời ấy: Bài này thuộc phần sau cùng của sách I-sa-i-a; chúng ta đang ở năm 525-520 trước CN, tức là 15 hay 25 năm, khi được hồi hương sau cuộc lưu đày Ba-by-lon. Dân chúng về đến quê hương chờ đợi được hạnh phúc ngay. Nhưng trên thực tế ngày về hằng mong đợi này không mang lại những gì ước mong.
Trước hết gặp những người đã ở lại, sống thời chiến tranh và bị đô hộ. Sau đó, có những người đã bị lưu đày, trông chờ tìm lại những gì đã mất. Nhưng cuộc lưu đày đã trải qua 50 năm, tức là những người ra đi nay đã chết nơi lưu đày. ..các người trở lại đây, là các con, các cháu của những người đã ra đi…Việc hội ngộ không đơn giản chút nào. Hơn nữa những người trở lại, không thể đòi hỏi hưởng gia tài cha ông trước kia để lại: Của cải người ra đi đã bị chiếm, việc này là điều không thể tránh được, tôi xin lập lại cuộc lưu đày này đã kéo dài 50 năm!
Sau cùng, có những người ngoại quốc đã đến định cư tại Giê-ru-sa-lem, trong thời gian đất nước xáo trộn, nhiều tập tục, nhiều tôn giáo được du nhập vào trong cả xứ. Tất cả những điều đó làm cho sự chung sống không đơn giản.
Mối bất hoà lớn nhất đến từ việc xây lại đền thờ: Ngay lúc trở về, do vua Ky-rô ban bố năm 538, những người mới về (chúng ta gọi là cộng đồng hồi hương) lập lại Đền thờ Giê-ru-sa-lem và bắt đầu hành lễ như trong quá khứ, cùng một lúc bắt dầu xây lại Đền thờ.
Thế nhưng, những người họ cho là những người lạc giáo, bắt đầu xen vào việc xây Đền thánh; đó là dân ở trong Giê-ru-sa-lem trong thời dân Do Thái bị lưu đày: Đó là những người Do Thái đã ở lại và những người nước ngoài, tức là những người ngoại đạo do quân chiếm đóng du nhập; dĩ nhiên có một sự trà trộn giữa hai loại dân và ngay cả, có những cuộc hôn nhân khác đạo, mọi người sống với những thói quen mà cộng đồng hồi hương cho là lạc đạo.
Vì những lẽ đó, cộng đồng hồi hương từ chối sự giúp đỡ của nhóm khác, cho rằng, đó là điều hiểm nguy cho đức tin: Đền thờ của Chúa Duy Nhất, không thể nào để cho những người khác xây, để sau này đến đó cử hành các lễ thờ theo đạo của họ! Đúng như điều tiên đoán, sự từ chối đó bị phản đối và những người bị từ chối làm mọi điều để cản trở việc xây lại Đền thờ. Các công trình phải chấm dứt, không còn giấc mơ xây lại Đền thờ!
Năm này sang năm khác, mối thất vọng tràn trề. Thế nhưng nếu cứ ảm đạm, buồn phiền và buông xuôi, không xứng đáng với dân được Chúa hứa. Trong bối cảnh này, I-sa-i-a và một Tiên tri nữa, tên A-gê quyết định lay chuyển lòng dân của mình: Trước hết về chủ đề: ngưng than vãn, bắt đầu vén tay áo lên, xây lại Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Như thế, mới có bài chúng ta đọc ngày hôm nay.
Ý thức được bối cảnh rất khó khăn, chúng ta ngạc nhiên về thể văn vinh thắng của vị Tiên tri; đó là cách nói của các Tiên tri; chúng ta biết, hứa nhiều về ánh sáng là không sợ ánh sáng đó làm loà mắt … nhưng về tâm lý mọi người còn đang trong đêm u tối. Chính trong đêm tối, người ta mới chờ loé lên ánh sáng của bình minh. Chính vai trò của Tiên tri là mang lại sự can đảm, nhắc lại một ngày rồi sẽ đến. Cách nói này không phải thể hiện sự cao hứng của dân chúng, nhưng, trái lại lòng ảm đạm u buồn của họ: Vì lẽ đó mà I-sa-ia- nói thật nhiều về ánh sáng.
Để nâng cao tâm lý quân của mình, hai vị Tiên tri dùng chỉ một lý lẽ, nhưng là một lý lẽ rất có tính thuyết phục: Giê-ru-sa-lem là Thành Thánh, thành được Chúa chọn, nơi đó ngự dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa. Chính Chúa đã hứa với vua Sa-lô-mon «Đây là Tên Ta». Vì thế Tiên tri I-sa-i-a nhiều thế kỷ sau, mới dám nói cho dân mình «Hãy đứng lên Giê-ru-sa-lem, hãy chiếu sáng»
Sứ điệp của Tiên tri I-sa-i-a hôm nay là «các người có cảm tưởng như trong đường hầm, nhưng cuối đường hầm là ánh sáng. Hãy nhớ Lời Hứa: NGÀY mà mọi người sẽ nhận ra Giê-ru-sa-lem là Thành Thánh». Kết luận: đừng buông xuôi, hãy bắt tay làm việc, hãy dùng mọi công sức xây lại Đền thờ như đã hứa.»
Tôi xin nói thêm ba điều nên chú ý :
1- Tiên tri I-sa-i- a cho ta bài học, khi có đức tin thì sự sáng suốt của chúng ta, không thể nào bóp nghẹt được lòng cây trông.
2-Lời hứa của Chúa không nhầm sự vinh thắng chính trị. ..Sự chiến thắng đây là chiến thắng của Chúa và nhân loại một ngày kia sẽ được hiệp nhất trong sự hài hoà toàn diện trong Thành Thánh. Chúng ta đọc lại câu đầu: Nếu Giêrusalem chiếu sáng, đó là ánh sáng và vinh quang của Chúa
«Hãy đứng lên Giêrusalem! Hãy chiếu sáng và vinh quang của Chúa sẽ chiếu rọi nơi con…Chúa sẽ ở trong con và vinh quang của Ngài sẽ chiếu sáng cho con… »
3- Khi Isaia nói tới Giê-ru-sa-lem, ngay từ thời đó, tên này chỉ dân chúng thành, chứ không phải thành Giêrusalem. Và chúng ta biết rằng, chương trình của Chúa vượt khỏi mọi thành trì, dù lớn dù đẹp cách mấy hay một dân chúng xứ nào mà đó là gồm cả nhân loại.
***
Tác giả: bà Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: http://www.eglise.catholique.fr/
Dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương