BÀI ĐỌC 2 (Rm5, 1-2.5-8)
"Lòng mến Chúa đổ xuống lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần là Đấng đã được ban cho chúng ta."
Trích thư Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Rô-ma
1 Vậy, một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
2 Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.
5 Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.
6 Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta.
7 Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng.
8 Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Muốn hiểu bài này phải đặt thư Thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma đúng vào vị trí của nó. Chúng ta đang ở một khúc quanh của thư này, kết luận cho phần đầu, suy niệm về tội lỗi thế gian. Và đối với Thánh Phao-lô, tội lỗi chỉ là trái ngược với cậy trông vào Thiên Chúa, ngược lại với đức tin. Có thể nói, đối với ngài tội lỗi là ngờ vực; qua tường thuật về tội của A-đam thánh nhân hiểu như thế. Dĩ nhiên, nếu tội lỗi là ngờ vực Thiên Chúa, thì tội lỗi tách rời khỏi Thiên Chúa, không thể nào cứu vãn được; như thể, mối hiệp thông bị cắt đứt. Tôi xin trở lại bài tường thuật trong sách Sáng Thế: Thiên Chúa thổi vào con người sự sống; hình ảnh ấy thật tuyệt vời… Hẳn các bạn thấy trước mắt hình ảnh bích họa của Michel-Ange: ngón tay Thiên Chúa chạm vào ngón tay con người.
Tác giả sách Sáng Thế đề nghị một hình ảnh khác, cũng đẹp như thế: chúng ta được treo bám vào hơi thở của Chúa. Bao lâu chúng ta còn được treo vào hơi thở của của Ngài - tức là chúng ta chấp nhận sự lệ thuộc của chúng ta và những giới hạn của chúng ta - lúc ấy, chúng ta có thể sống thanh thản. Ở đây, bài tường thuật sách Sáng Thế còn có một hình ảnh rất gợi cảm; bài nói «Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau» (St 2, 25) .
Sự trần truồng lúc nào cũng tế nhị, mong manh; nhưng, mong manh khi chúng ta an toàn thì không có gì nguy hiểm. Không cần phải bảo vệ; sự «trần truồng», tức là sự mong manh của chúng ta vẫn yên bình. Trái lại, khi chúng ta mất tín nhiệm nơi Thiên Chúa, chúng ta tự xa cách với Ngài, chúng ta không còn bám treo vào hơi thở của Ngài. Vì thế sách Sáng Thế nói đến sự chết. Trong chiều kích nhỏ bé của chúng ta, chúng ta biết rằng điều giết chết mối bang giao là khi sự ngờ vực bắt đầu. Ở đây cũng vậy, bài dùng hình ảnh thứ hai: người nam và người nữ không còn sống trong tin cậy nữa, họ lấy lá che thân. Một khi ngờ vực, thì không có thể sống thanh thản với sự mong manh của chúng ta nữa; lúc ấy ta tìm cách tự bảo vệ, che thân. Cũng sự ngờ vực ấy nơi A-đam, chúng ta gặp lại trong Mác-xa và Mơ-ri-va; đó là Bài Đọc Một Chúa nhật thứ III Mùa Chay năm nay: đứng trước những khó khăn trong sa mạc, đặc biệt nạn khát, dân chúng nghĩ «Chúa muốn chúng ta chết». Trái hẳn lại, Chúa Giê-su Ki-tô, vẫn một lòng cậy trông, bất cứ điều gì có thể xảy ra, vẫn treo mình bám vào hơi thở của Thiên Chúa: ví dụ, chúng ta thấy trong đoạn Chúa bị cám dỗ trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, phần đầu chương 4: «Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra»; hay là «Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi» và sau cùng «Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi». Khi Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu nguyện: «Chúng con nguyện… nước Cha trị đến», Ngài ngụ ý nói, vì ý Cha luôn tốt lành, không lúc nào Ngài ngờ vực ý định Thiên Chúa. Ngay trong vườn Gét-xê-ma-ni, Ngài còn nói: «Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn.» (Mc 14, 36), câu này ngụ ý nói, vì ý Cha lúc nào cũng tốt thôi. Bởi vì Ngài sống bám treo theo hơi thở Thiên Chúa, Ngài được sống do hơi thở ấy, ngay qua cả cái chết thể lý. Vì lẽ ấy, Ngài phục sinh. Và như ông Mô-sê làm môi giới giữa dân chúng và Thiên Chúa; Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng trung gian, Ngài tái lập lại nguồn hiệp thông: «chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa» (c.1- 2)
Nhất là không nên xem đó như một sự tính toán phần thưởng; nhờ thái độ tốt lành của Chúa Giê-su làm cho Ngài xứng đáng được thưởng, từ đó toả ra cho chúng ta. Đối với Thiên Chúa, Ngài chính là tình yêu, không có vấn đề tính toán. Ngay cả chúng ta, chúng ta tuy không biết yêu thương chi lắm, chúng ta cũng biết nói tình yêu không tính toán… Vỏn vẹn, bởi vì Ngài nối liền mật thiết với Thiên Chúa, nên Ngài nhận liên tục sự sống của Thiên Chúa, hơi thở của Thiên Chúa. Và chúng ta, bởi Ngài, chúng ta: «hưởng ân sủng của Thiên Chúa» (c.2). Chúng ta có khuynh hướng hỏi vì sao thế: vì ân sủng, tự nó là quà cho nhưng không. Đó mới là điều tuyệt diệu, như Thánh Phao-lô nói trong thư gửi tín hữu Cô-lô-xê: «Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người» (Cl 1, 19). Có nghĩa là, nơi Chúa Giê-su Ki-tô treo bám vào Thiên Chúa sẽ được Chúa Thánh Thần ban cho sự sống: «Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.» (c.5), Thánh Phao-lô nói.
Qua đoạn này, tôi xin lưu ý hai điều. Bài này nêu bật tính Ba Ngôi Thiên Chúa, thường gặp nơi Thánh Phao-lô: Chúa Cha làm cho chúng ta công chính, Chúa Giê-su mang lại ân sủng cho chúng ta; tức là trong tình yêu Thiên Chúa, Thánh Thần Chúa được ban cho chúng ta và Ngài, tràn đầy nơi ta bằng chính tình yêu Thiên Chúa. Điều đáng lưu ý thứ hai là: lời Thánh Phao-lô dùng, được viết theo thể quá khứ. Thiên Chúa đã làm cho chúng ta công chính, Chúa Giê-su Ki-tô đã ban cho chúng ta, Thánh Thần Chúa đã được ban xuống cho chúng ta. Đó là điều chắc chắn rồi; có nghĩa là có hai yếu tố: đã cho rồi - chỉ cần chúng ta lãnh nhận món quà, một cách nào đó, dù chúng ta có xứng đáng hay không. Điều này làm chúng ta an tâm, có ai trong chúng ta dám cho mình xứng đáng điều chi không? Cũng không phải Thánh Phao-lô cho chúng ta một bài học luân lý, đại loại như «hãy xứng đáng với thực tế ấy». Thánh Phao-lô chọn cách nói với chúng ta: «Hãy nhận lãnh món quà, tạ ơn và sống với nó…. Món quà ấy chính nó sẽ biến đổi bạn…». Nhưng tôi tự hỏi, tại sao chúng ta khó chấp nhận ân sủng là quà được ban cho nhưng không, đến thế?
***
PHÚC ÂM (Ga 4, 5-42)
"Mạch nước vọt đến sự sống đời đời."
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.
5 Vậy, Người đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se.
6 Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống! "
8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn.
9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: "Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao? " Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri.
10 Đức Giê-su trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: "Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống."
11 Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?
12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy."
13 Đức Giê-su trả lời: "Ai uống nước này, sẽ lại khát.
14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời."
15 Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước."
16 Người bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây."
17 Người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng." Đức Giê-su bảo: "Chị nói: "Tôi không có chồng" là phải,
18 vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng."
19 Người phụ nữ nói với Người: "Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ. ..
20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa."
21 Đức Giê-su phán: "Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem.
22 Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái.
23 Nhưng giờ đã đến và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.
24 Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật."
25 Người phụ nữ thưa: "Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự."
26 Đức Giê-su nói: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây."
27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: "Thầy cần gì vậy? " Hoặc "Thầy nói gì với chị ấy? "
28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta:
29 "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao? "
30 Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: "Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa."
32 Người nói với các ông: "Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết."
33 Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng? "
34 Đức Giê-su nói với các ông: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.
35 Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!
36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng.
37 Thật vậy, câu tục ngữ "kẻ này gieo, người kia gặt" quả là đúng!
38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ."
39 Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm.
40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày.
41 Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa.
42 Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian."
Ngày nay, nước máy mang lại nhiều lợi ích. Chúng ta không còn những cuộc gặp gỡ bên bờ giếng: giếng nước giữa sa mạc hay giếng nước trong làng. Biết bao nhiêu mối giao kết được thắt nối bên bờ giếng, bao nhiêu cuộc hôn nhân trong Thánh Kinh? Cũng bên bờ giếng, người làm thuê cho ông Áp-ra-ham đã gặp Rê-béc-ca, sau này trở nên vợ của I-sa-ắc; bên bờ một giếng nước, ông Gia-cóp phải lòng với Ra-khen; bên bờ một giếng nước xứ Pa-lét-tin, Chúa Giê-su bắt đầu một cuộc đàm thoại nổi tiếng nhất trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an, cuộc đàm thoại với một người gọi là người phụ nữ Sa-ma-ri.
Chúa Giê-su đi ngang qua vùng Sa-ma-ri, trên đường đi đến Ga-li-lê; Chúa lìa xứ Giu-đa, ở đấy các người Pha-ri-sêu bắt đầu dò xét Ngài. «Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa». Tại sao Thánh Gio-an nói rõ giờ lúc ấy? Có phải là giờ đi lấy nước giếng hay là giờ sáng nhất; và ánh sáng thế gian vừa chiếu rọi xuống xứ Sa-ma-ri, mặc khải Đấng Mê-si-a?
Vì dưới mắt các người Pha-ri-sêu, Sa-ma-ri là nơi cần phải hoán cải nhất. Mối bất hòa giữa Giu-đa và Sa-ma-ri đã từ lâu: khởi đầu từ quân xâm lược Át-sua đánh chiếm (các bạn có thể gọi quân Ni-ni-vơ). Thành phố Sa-ma-ri bị đánh chiếm năm 721 trước CN, lúc ấy Giê-ru-sa-lem còn ngoài vòng chiến. Thế nhưng, chính sách quân chinh phục là áp đặt các cuộc di dân: họ đày dân Sa-ma-ri đi nơi khác, và cho các dân bị thua trận nơi khác vào cư ngụ trong thành và xứ Sa-ma-ri. Thư thứ hai Các Vua nói rõ: «Vua Át-sua đã đưa người từ Ba-by-lon, Cu-tha, A-va, Kha-mát và Xơ-phác-va-gim đến định cư ở các thành xứ Sa-ma-ri, thế vào chỗ con cái Ít-ra-en. Họ chiếm Sa-ma-ri và ở trong các thành của xứ này.» (2V 17, 24). Dưới mắt dân Chúa chọn, những người mới đến là những người ngoại; họ du nhập các tôn giáo của họ cùng với các thần thánh của họ. Từ đấy, nảy sinh một sự ngờ vực kinh khủng trong dân xứ Giu-đa đối với những người dị giáo này. Sự nghi kỵ càng ngày càng trầm trọng với thời gian, thế kỷ này sang thế kỷ khác; vào thời Chúa Giê-su, tình trạng ấy được cảm nhận rõ ràng trong tâm trí mọi người. Lý do đó giải thích thái độ ngạc nhiên người phụ nữ Sa-ma-ri: một người Do Thái mà hạ xuống hỏi xin mình một điều gì?
Nhưng chỉ cần bà lắng nghe, Chúa Giê-su có thể đề nghị cho một món quà thật sự: «Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị» (c.10). Ân huệ Thiên Chúa là chính Chúa Giê-su, là nhận biết Ngài. Chúa Giê-su còn lặp lại trong lời cầu nguyện cuối cùng, cũng trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an: «Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô.» (Ga 17, 3). Mặc dù, họ là những người dị giáo trước mắt những người Pha-ri-sêu; người Sa-ma-ri cũng chờ đợi Đấng Mê-si-a, và biết rằng Ngài sẽ đến mặc khải cho họ mọi thứ. Người phụ nữ Sa-ma-ri nói với Chúa Giê-su: «Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.» (Ga 4, 25a). Chỉ cần vỏn vẹn chị chấp nhận đối thoại; vì chị cởi mở, vì chị thành tâm hỏi để muốn biết làm gì để vui lòng Thiên Chúa, là chị sẽ được mặc khải về Đức Mê-si-a: «Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây» (Ga 4, 25b).
Suốt bài tường thuật, Thánh Gio-an cho chúng ta hiểu, với Đấng Mê-si-a đến, thế giới sẽ được thay đổi: mọi vấn nạn sẽ có giải đáp, thời gian được hoàn tất. Thời điểm lịch sử nhân loại nhắm tới, đã đến. Kể từ nay, việc tôn thờ Thiên Chúa không còn là vấn đề nơi chốn, đền thờ, hay núi này núi nọ. Nước hằng sống sẽ vọt lên từ đáy lòng người có lòng tin: «Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời » (c.14). Hẳn các bạn chú ý Chúa Giê-su nhấn mạnh ở chữ «cho»: đối với Thiên Chúa tình yêu, mọi sự là quà cho nhưng không, là tha thứ. Người phụ nữ Sa-ma-ri biết mình kém nhân đức, đơn sơ đón nhận (có lẽ đơn sơ hơn nhiều người?) món quà và sự tha thứ. Khi Chúa Giê-su nói mạch nước vọt lên từ lòng người tín hữu; từ nay, nước ấy có thể làm cho người khát không còn khát nữa. Dù sao, đó là những gì người phụ nữ Sa-ma-ri cảm nhận, và chị đi loan báo khắp thành cho họ biết: «Người thật là Đấng cứu độ trần gian» (Ga 5, 42).
***
Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions
Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng.