Lời Chúa CN

TÌM HIỂU CỰU ƯỚC CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN NĂM B - 5/9/2021

BÀI ĐỌC 1 ( Is35, 4-7a)

 

"Tai người điếc sẽ mở ra và người câm sẽ nói được".

 

Trích sách Tiên tri Isaia.

 

4 Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ!
Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục,
ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.
Chính Người sẽ đến cứu anh em."

5 Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.

6 Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Vì có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.

7 Miền nóng bỏng biến thành ao hồ,
đất khô cằn có mạch nước trào ra.

Câu quan trọng nhất của bài đọc hôm nay là « Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em », báo phục của Thiên Chúa có nghĩa là cứu chúng ta. Lẽ ra tốt hơn nên viết như thế này: « sắp tới ngày báo phục: (hai chấm) chính Thiên Chúa sẽ đến cứu anh em ».

Và tất cả phần còn lại của bài là nhưng lời hứa: lời hứa chữa lành, hồi phục người mù, kẻ điếc, người câm, người què … « 5 Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. 6 Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò ». Nhất là lời hứa hồi hương cho những người bị lưu đày: « 10 Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về, tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo »(câu 10 không được đọc hôm nay). Thật vậy, khi ngôn sứ I-sa-i-a nói những lời này, dân It-ra-en còn đang bị đày bên Ba-by-lon, sau khi sống những giây phút tàn bạo của cuộc vây hãm thành Giê-ru-sa-lem do quân đội của vua Na-bu-cô-nô-so. Năm mươi năm sau, mất can đảm là lẽ thường tình. Không phải ngẫu nhiên mà I-sa-i-a nói trong câu 3 (không được đọc hôm nay) « 3 Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng ».

Năm mươi năm hằng mong ước ngày trở về mà không dám tin là có thể được. Nhưng bỗng nhiên vị ngôn sứ nói tiên tri: « ngày ấy sắp đến ». Để trở về xứ, con đường thẳng nhất từ Ba-by-lon tới Giê-ru-sa-lem phải qua sa mạc A-ra-bi. Thế nhưng hành trình qua sa mạc, ngôn sứ I-sa-i-a miêu tả như một quãng đường vinh thắng…hơn thế nữa, một cuộc diễu hành tuyệt vời: sa mạc sẽ vui mừng, đất khô cằn sẽ hớn hở, ca hát mừng vui, trong bản văn Do Thái còn nói sa mạc sẽ vui mừng hớn hở…Các thánh vịnh không dùng những từ ngữ nào khác hơn trong các lời nguyện được hát trong các cuộc diễu hành oai phong ấy. Sa mạc sẽ trở nên đẹp … đẹp như những đồi núi xứLi băng…« 1 Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, 2 hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron. » (C1-2)Cuộc trở về ấy là một cuộc diễu hành tạ ơn của những người « được cứu thoát »trở về . « 10 Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về, tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo ». Chữ trở về phải hiểu ở hai cấp bậc: họ trở về xứ nhưng trước hết, ý nghĩa sâu xa hơn là họ trở về với Thiên Chúa. Sự trở về ấy là sự hoà giải với Chúa, quay về Giao Ước. Chữ « trở về »ở đây là «quay ngược lại.» .

Tất cả là công trình của Thiên Chúa: « Chính Người sẽ đến cứu anh em…10Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về ». Trong câu trước, ngôn sứ I-sa-i-a ám chỉ đến hành động « chuộc lại »theo Luật Do Thái, nếu một người mang nợ bắt buộc phải bán nhà bán đất để trả nợ  thì một người thân nhất trong gia đình có thể trả thay và người mang nợ có thể giữ lấy nhà, đất. (Lv25,25). Nếu người mang nợ không có sở hữu gì phải tự bán mình làm nô lệ, thì cũng vậy, một người thân trong gia đình có thể can thiệp nơi chủ nợ, để giải thoát người mang nợ, như thế gọi là « đòi lại ». Cũng vì thế chữ « cứu »trong Thánh Kinh có nghĩa là « giải thoát». Chữ « cứu độ »có nghĩa là «giải thoát bởi một người trong gia đình ». Cũng trong nghĩa ấy Chúa nói nhiều lần: « Ta đòi các ngươi lại ». Sau cùng, trong trường hợp giết người, người thân cận nhất trong gia đình phải trả thù (Ds 35,12). Khi I-sa-i-a nói « Thiên Chúa báo phục » điều này, một đàng có nghĩa là Thiên Chúa là đấng thân thuộc gần nhất It-ra-en, là kẻ phải « báo phục », tất cả những đau khổ của It-ra-en không thể cho Chúa làm ngơ, và đàng khác Ngài bảo vệ quyền lợi cho dân Ngài chống lại những gì làm cho dân khổ và Ngài can thiệp để giải thoát.

Đấy là một ý nghĩa hết sức tích cực của chữ « báo phục ». Đối với người trong Thánh Kinh, Thiên Chúa không trả thù chúng ta, Chúa không báo phục chống lại chúng ta, nhưng chống lại sự dữ, sự dữ này làm hại chúng ta, làm cho chúng ta hư hỏng. Sụ báo phục của Ngài là xoá bỏ sự dữ, như tiên tri I-sa-i-a nói: « 5 Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.6 Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò …10 Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về ».

Nhưng cũng phải nói, con người không luôn nghĩ như thế ! Bài đọc trong sách I-sa-i-a đến khá trễ trong lịch sử thánh Kinh. Phải trải qua một thời gian dài của sự mặc khải mới đến đấy. Khi khởi đầu lịch sử, dân chúng trong Thánh Kinh tưởng tượng một Thiên Chúa giống hình ảnh con người, trả thù như con người. Thế rồi dần dần nhờ mặc khải của Thiên Chúa, qua lời giảng dạy của các ngôn sứ người ta khám phá ra Thiên Chúa như Thiên Chúa thật, không như người ta tưởng tượng. Từ đó chữ « báo phục » còn được giữ nhưng ý nghĩa đã hoàn toàn thay đổi. Chúng ta cũng đã chứng kiến sự thay đổi hoàn toàn ý nghĩa một chữ: ví dụ như trường hợp « lễ toàn thiêu » hay « kính sợ Thiên Chúa ».

Phải trải qua nhiều giai đoạn và nhiều thế kỷ để chúng ta khám phá ra mặt thật của Thiên Chúa, một Thiên Chúa khác hẳn chúng ta: « 8 Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta »(Is55,8). Một Thiên Chúa chỉ là tình yêu và lòng xót thương tất cả mọi người-ngay cả kẻ dữ-một Thiên Chúa như Ê-dê-ki-en nói: « 21 Nhưng nếu kẻ gian ác từ bỏ mọi tội lỗi mình đã phạm mà tuân giữ mọi quy tắc của Ta, cùng thi hành điều chính trực công minh, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết »(Ed 18,21). Vì thế, dần dần chúng ta khám phá ra ý nghĩa của câu: « Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục », tức Thiên Chúa là người thân gần nhất của anh em, Ngài yêu anh em hơn ai hết trên đời và cho dù anh em bị sỉ nhục thể xác hay tinh thần ngần nào, Ngài cũng đến cứu chuộc anh em và nâng đỡ anh em lên.

***

 

THÁNH VỊNH ( 145, 7-9a.9bc-10)

 

Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa!  

 

Chúa xử công minh cho người bị áp bức,
ban lương thực cho kẻ đói ăn.
CHÚA giải phóng những ai tù tội,

8 CHÚA mở mắt cho kẻ mù loà.
CHÚA cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên,
CHÚA yêu chuộng những người công chính.

9 CHÚA phù trợ những khách ngoại kiều,
Người nâng đỡ cô nhi quả phụ,
nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.

Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.

Hôm nay chúng ta chỉ đọc 4 câu của bài Thánh Vịnh này gồm 10 câu, vì thế chúng ta không nghe được hai chữ Ha-lê-lui-a! của câu đầu và câu cuối. Sở dĩ bài này được đóng khung bằng chữ Ha-lê-lui-a – có nghĩa là ngợi khen Thiên Chúa - vì trọn bài thánh vịnh này là lời ngợi khen và biết ơn Thiên Chúa. Bài được viết sau khi lưu đày Ba-by-lon về, có thể để dâng hiến đền thờ vừa mới được trùng tu.

Đền thánh bị phá huỷ năm 587 trước CN do quân của vua Ba-by-lon, Na-bu-cô-đô-nô-do. Năm mươi năm sau (năm 538tr CN), khi vua Ki-rô xứ Ba-tư chiến thắng Ba-by-lon cho phép dân It-ra-en đang bị làm nô lệ ở Ba-by-lon trở về It-ra-en và xây dựng lại Đền Thờ. Chúng ta cũng biết điều này không dễ, có những mối bất hoà trầm trọng xảy ra giữa những người đầy nhiệt huyết vừa mới hồi hương và những người đã chiếm vùng đất ấy trong lúc những người kia bị lưu đày. Phải cần nhiều nỗ lực và tính bền bỉ của các ngôn sứ Khác-gai và Da-ca-ri-a, các công trường mới được khởi công và hoàn thành. Tất cả kéo dài từ năm 520 đến năm 515 (trước CN), dưới triều đại vua Đa-ri-ô. Buổi lễ dâng hiến Đền Thờ vừa mới được trùng tu được diễn ra trong niềm hân hoan và sốt sắng: « 16 Con cái Ít-ra-en, các tư tế, các thầy Lê-vi và những người lưu đày trở về, hân hoan cử hành lễ khánh thành Nhà Thiên Chúa » (Et 6,16)

Bài thánh vịnh này đượm đầy niềm vui trở về quê hương. Một lần nữa Thiên Chúa lại đến chứng minh lòng trung tín với Giao Ước. Xưa kia trong cuộc Xuất Hành và lúc rời khỏi Ai-cập, và bây giờ lúc rời Ba-by-lon Ngài đã nâng dân Ngài lên, Ngài đã « trả thù » cho họ, theo nghĩa của tiên tri I-sa-i-a. Khi dân It-ra-en đọc lại lịch sử dân tộc, họ không thiếu chi bằng chứng rằng Thiên Chúa luôn luôn đồng hành với họ để tranh đấu cho tự do: « Chúa xử công minh cho người bị áp bức… CHÚA giải phóng những ai tù tội ». Trong cuộc hành trình trong sa mạc, trong cuộc Xuất Hành, Thiên Chúa đã ban bánh Man-na và chim cút làm lương thực: « ban lương thực cho kẻ đói ăn ». Và như thế, từ từ dân chúng khám phá ra một Thiên Chúa triệt để đứng về phía những kẻ bị áp bức và chữa lành người mù loà và nâng cao bất cứ những người bé nhỏ nào.Đó không phải là những ý tưởng mọi người chấp nhận dễ dàng, một cách tự phát về một Đấng Sáng Tạo vũ trụ, phải có một sự mặc khải qua Thánh Kinh để mọi người chấp nhận sự biểu hiện kỳ lạ này về Thiên Chúa. Đây là một niềm hạnh phúc và vinh hạnh của dân tộc It-ra-en được mặc khải cho nhân loại, một Thiên Chúa tình yêu và giàu lòng thương xót. Giàu lòng thương xót, có nghĩa là « chạnh lòng thương trước cảnh đau khổ». Các bạn hẳn còn nhớ câu bất hủ trong Chúa nhật thứ XXX thường niên năm C, trong sách Huấn Ca (Hc 35,15) « 15 Nước mắt quả phụ lại không giàn giụa trên gò má.. ». Bài Thánh Vịnh không nói với chúng ta những gì khác hơn: « Người nâng đỡ cô nhi quả phụ ». Đến lượt dân chúng được mời gọi bắt chước Thiên Chúa, sống với lòng thương xót như thế, đối với những người bị áp bức đủ điều. Và các bạn hẳn nhận xét rằng, để chắc chắn dân chúng tuân theo lòng thương xót của Thiên Chúa, bộ Luật của It-ra-en gồm nhiều điều lệ bảo vệ cô nhi quả phụ và những người khách tha hương. Về phần các ngôn sứ, các ngài dựa vào những tiêu chuẩn ấy để xét lòng trung tín của It-ra-en đối với Giao-ước.

Một cách hiểu sâu xa hơn, chúng ta nhận thấy tín hữu Do Thái một khi dần dần sống trong Giao Ước với Thiên Chúa họ được cảm hoá từ  bên trong: « Chúa ban lương thực cho kẻ đói ăn », đúng là lương thực…nhưng trong lòng trong mỗi chúng ta có một cơn đói sâu xa hơn, cho những người đói ăn ấy Chúa ban cho bánh hằng sống, là Lời của Ngài…« 8 CHÚA mở mắt cho kẻ mù loà » có những mù loà trên phương diện khác, trầm trọng hơn, đối với họ Chúa làm cho mở mắt ra: « CHÚA giải phóng những ai tù tội », có những gông xiềng khác hơn những nhà tù, đó là những xiềng xích hận thù, kiêu ngạo và ghen ghét… người tín hữu có thể minh chứng rằng Chúa tháo gỡ dần dần cho họ khỏi trái tim bằng đá.

Vì thế chúng ta hiểu vì sao bài Thánh Vịnh được nằm giữa hai chữ Ha-lê-lui-a. Chúng ta hẳn còn nhớ theo truyền thống Do Thái nghĩa của chữ Ha-lê-lui-a: « Thiên Chúa đã đem chúng ta từ kiếp nô lệ đến tự do, từ phiền muộn đến chứa chan niềm vui, từ tang tóc đến hân hoan, từ bóng tối đến ánh sáng chiếu loà, từ tình trạng nông nô đến được cứu độ. Vì thế chúng ta hãy cùng hát trước thánh nhan Ngài, Ha-lê-lui-a. ».

Dĩ nhiên những Ki-tô hữu đọc lại bài Thánh Vịnh này và áp dụng cho Chúa Giê-su Ki-tô: Chẳng những Ngài nuôi dưỡng người thời ấy bằng hoá bánh ra nhiều, ngày nay Ngài ban cho mỗi thế hệ được nhận phép Rửa, bánh của Thánh Thể Ngài. Chính Ngài cũng quả quyết rằng: « 12 …Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. » (Ga8,12). Chính nơi Ngài, từ nay nhân loại có thể được chấp nhận hoàn toàn đến với tự do và sự sống: sự Phục Sinh của Ngài là bằng chứng của sự chết thể xác không cầm buộc người được nhận phép Rửa Tội: « CHÚA giải phóng những ai tù tội ».

Thánh kinh quả quyết rằng chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Có lúc chúng ta tự hỏi như thế là thế nào! Chúng ta tìm thấy nơi đây một lời giải thích và một khích lệ: câu trả lời là mỗi khi chúng ta can thiệp cho một người đau khổ, bất cứ đau khổ vì sao- mù loà, câm điếc, tù tội, người xa lạ- là chúng ta giống hình ảnh Thiên Chúa. Điều khích lệ là mỗi khi bạn làm điều chi cho một người bé nhỏ hơn bạn, là bạn làm cho Nước Trời đến gần hơn …Một ngày có một người học giáo lý tân tòng vừa mới khám phá phép lạ Chúa Giê-su hóa bánh ra nhiều, hỏi giáo lý viên: « Tại sao ngày nay Chúa không làm như thế để nuôi những người đói nghèo ? » Sau một phút thinh lặng, có tiếng thì thầm: « Có lẽ Ngài trông đợi chúng ta làm ».

***

 

Tác giả: Marie-Noëlle Thabut                       
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions


Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân              

Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng                


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com