Lời Chúa CN

TÌM HIỂU CỰU ƯỚC CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN NĂM B - 12/9/2021

BÀI ĐỌC 1 ( Is50, 5-9a)

 

«  Tôi đã đưa lung cho kẻ đánh tôi 

(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)

 

Trích sách Tiên tri Isaia

 

5 Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.

6 Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.

7 Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.

8 Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.
Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà!
Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!

9 Này, có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,
ai còn dám kết tội?

Chúng ta đã gặp vào dịp Lễ Lá năm nay, một đoạn sách I-sa-i-a nói về Người Tôi Trung của Thiên Chúa. Bài hôm nay Tiên tri I-sa-i-a vạch rõ cho chúng ta mối liên quan tuyệt vời gắn liền Người Tôi Trung với Chúa của Ngài. Đặc trưng chính yếu của mối liên quan này, dĩ nhiên đó là sự tin cậy…" mở tai tôi -lắng tai nghe " đó chính là thái độ của sự tin cậy.

4 " Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.

5 Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui "

Thái độ này trái ngược hẳn với thái độ của A-đam và E-va, A-đam người hay ngờ vực, hồ nghi ý định của Chúa và tưởng đã hiểu hết mọi chuyện khi nghe tiếng xì xào cho rằng Chúa ganh tị với tạo vật của Chúa…Người viết câu truyện về lỗi phạm của A-đam muốn chứng minh một sự thật, chính sự nghi kỵ từ sâu thẳm đáy lòng là nguồn gốc làm chúng ta lầm đường và dẫn tới những tai hoạ. Sự nghi kỵ đó cũng dẫn chúng ta đến sự chết vì nó làm cho chúng ta xa cách nguồn cội của sự sống, đó chính là Thiên Chúa : chúng ta được tạo nên để sống nhờ hơi thở của Thiên Chúa (Các bạn hẳn còn nhớ, Chúa đã nắn con người bằng đất sét lấy từ bụi đất, rồi thổi vào mũi con người sự sống). Nghi kỵ tức là tự cắt đứt mối liên quan sống còn đó.

'' Lắng tai nghe '' hiểu theo nghĩa Thánh Kinh là những gì trái ngược hẳn với lời xì xào và những lời trách móc ở Mắc-xa và Mơ-ri-va. Nơi ấy mặc dù vừa mới được Thiên Chúa giải thoát - giải thoát khỏi nhà tôi mọi, như họ thường nói, tức là ách nô lệ Ai-cập – dân này vừa trải nghiệm từ bằng xương máu hành động giải phóng của Chúa - thế mà đã nghi kỵ Thiên Chúa lúc phải đương đầu với đói khát. Từ nay trong Thánh Kinh, chúng ta thường thấy đối chiếu hai thái độ điển hình, trong thực tế thường làm đời sống chúng ta dao động : hoặc trông cậy vào Chúa, an tâm phó thác vào thánh ý Ngài vì qua kinh nghiệm ý Ngài luôn luôn tốt cho chúng ta…hoặc nghi kỵ, ngờ vực vào ý định của Chúa, gây phẫn nộ trước những thử thách. Sự phẫn nộ có thể làm chúng ta tin rằng, Chúa đã bỏ rơi chúng ta, hay tệ hơn, tưởng rằng Chúa tìm thoả mãn khi chúng ta chịu đau khổ. Các Tiên Tri lần lượt lặp đi lặp lại ''It-ra-en hãy lắng nghe '' Hay là "Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!" (Tv 95,7), trong cách nói của các ngài chữ lắng nghe, có nghĩa là hãy tin cậy dù bất kỳ những gì có thể xảy ra. Thánh Phao-lô giải thích tại sao trong (Rm 8, 28) :

 ''28 Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định ''   

Từ bất cứ đau khổ nào, khó khăn nào, thử thách nào, Ngài làm nảy sinh ra sự lành. Từ lòng oán thù, Ngài đối lại bằng một tình yêu mãnh liệt hơn nữa; từ mọi bách hại, Ngài ban sức mạnh để tha thứ ; từ cõi chết Ngài ban sự sống, sự Phục Sinh.

Chính vì lòng tin cậy ấy khiến cho Người Tôi Trung chấp nhận sứ mạng được giao phó. Khi chúng ta thật sự phục vụ kẻ khác, phục vụ một cách cụ thể cho người khác đó là lúc chúng ta thi hành '' sứ vụ được giao phó '', khi ấy chúng ta hiểu qua kinh nghiệm rằng chúng ta sẽ có những phương sách cần thiết để thực hiện. Giống như câu 7 trong bài :"7 Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi ".

Tôi vừa nói '' sứ vụ được giao phó '', không phải để chơi chữ, nhưng để nói sự tin cậy của hai bên lẫn nhau. Chúa tin ở Người Tôi Trung, giao cho Người sứ vụ ; để đáp lại Người Tôi Trung chấp nhận sứ vụ một cách tin tưởng. Chính sự tin cậy ấy ban cho Người sức mạnh cần thiết để đương đầu với mọi khó khăn tất nhiên phải gặp trên đường. Ở đây sứ vụ ấy dành cho Tiên Tri :

"… để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức ", nhân tiện nơi đây tôi xin lưu ý là mọi sứ vụ đều có mục đích phục vụ tha nhân. Khi trao sứ vụ ấy, Chúa ban cho sức mạnh cần thiết. Chúa cho lời nói cần thiết :

 "4 Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ " Ngài nuôi dưỡng lòng tin cậy đó vì chính là cội nguồn của mọi sự táo bạo phục vụ kẻ khác.

“ 5 Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi”, sự lắng nghe theo nghĩa của Thánh Kinh là một ơn lành Chúa ban. Tất cả đều là những món quà nhưng không : sứ vụ, sức mạnh và lòng tin cậy làm cho không nao núng. Đó là đặc thái của người tín hữu nhận ra tất cả là hồng ân Thiên Chúa.

Kẻ nào sống thường trực với sức mạnh Chúa ban có thể dũng cảm đương đầu với tất cả :

"7 Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá " Sự trung thành với sứ mạng giao phó dẫn tới tất nhiên bị bách hại : các Tiên Tri, tức là những vị rao giảng thật sự Lời của Chúa ít khi chết trên giường bệnh…Vì một khi trung thành với Lời của Chúa, sẽ dẫn Người Tôi Trung tới không thể nào tránh được làm cho khác người khác mất lòng. Một khi người Tiên Tri thật sự '' lắng nghe '' Lời của Chúa - tức là đem ra thực hành – thì người ấy sẽ làm phật ý nhiều người. Sự trở lại của người sẽ làm cho người khác trở lại. Có người sẽ nghe theo tiếng gọi, có người từ chối không chấp nhận và, nhân danh chính ý của mình sanh ra bách hại Người Tôi Trung  (đó là những gì xảy ra với Chúa Giê-su ở Na-da-rét)

Như thế mỗi sáng Người Tôi Trung phải múc lấy sinh lực nơi Đấng sẽ ban sức cho, để dũng cảm đương đầu với mọi sự :

" Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.5 Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
6 Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. "

Ở đây Tiên Tri I-sa-i-a dùng cụm chữ khó hiểu " tôi trơ mặt ra như đá.", câu này theo tiếng Do Thái nói sự quyết tâm và lòng can đảm. Trong bài này Người Tôi Trung khẳng định '' Không có gì đè bẹp tôi được, tôi sẽ đứng vững và mặt tôi sẽ không bao giờ xệ xuống'' . Đây không phải lòng kiêu ngạo, tự cao tự phụ mà là lòng tin cậy hoàn toàn, vì Người biết sức mạnh từ đâu tới :

" 7 Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn,...Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng "

***

 

THÁNH VỊNH (Tv114, 1-9)

 

"Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh"

 

1   Lòng tôi yêu mến Chúa, vì CHÚA đã nghe tiếng tôi khẩn nài,

2   Người lại lắng tai ngày tôi kêu cứu.

3   Dây tử thần đã bủa vây tôi chằng chịt, 
     lưới âm ty chụp xuống trên mình.

4   Gặp gian truân sầu khổ, tôi đã kêu cầu danh CHÚA : 
     "Ôi lạy CHÚA, xin cứu gỡ mạng con !"

5   CHÚA là Đấng nhân từ chính trực, 
     Thiên Chúa chúng ta một dạ xót thương,

  hằng gìn giữ những ai bé mọn, 
     tôi yếu đuối, Người đã cứu tôi.

  Hồn tôi hỡi, thôi bình tĩnh lại, 
     vì trên ngươi, CHÚA đã xuống ơn lành ;

8   Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, 
     giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, 
     ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân.

9   Tôi sẽ bước đi trước mặt Người 
     trong cõi đất dành cho kẻ sống.

 

Đây là lời cầu nguyện của dân tộc có đức tin. Họ đã trải nghiệm, chính ngay trong lúc sự đau khổ rằng Thiên Chúa đứng về một phe với họ « 10 Tôi đã tin cả khi mình đã nói : "Ôi nhục nhã ê chề ! » (Câu 10 chúng ta không đọc hôm nay). Sự nhục nhã nói ở đây là kiếp nô lệ bên Ai-cập : Mười lần vua Pha-ra-on hứa cho tự do, nhưng cuối cùng lần nào ông cũng cư xử như kẻ thù nghịch. Chỉ có Thiên Chúa mới luôn cố gắng giải thoát dân Ngài và giúp họ trốn về xứ. Các câu đầu bài thánh vịnh giải thích bối cảnh ấy :

«1 Lòng tôi yêu mến Chúa, vì CHÚA đã nghe tiếng tôi khẩn nài, 

Người lại lắng tai ngày tôi kêu cứu.

 3 Dây tử thần đã bủa vây tôi chằng chịt,  lưới âm ty chụp xuống trên mình.

 Gặp gian truân sầu khổ, tôi đã kêu cầu danh CHÚA : "Ôi lạy CHÚA, xin cứu gỡ mạng con !" Lưới âm ty ở đây là Ai-cập, nhưng sau nhiều thế kỷ có nhiều thứ xiềng xích khác. Mọi người đều biết mặc dù chúng ta có vẻ tự do, chúng ta cũng bị xiềng xích.

Có một loại trong những xiềng xích ấy, tệ nhất các thứ gông xiềng là trong trí ta có một hình ảnh sai lệch về Thiên Chúa. Ví dụ như tưởng tượng một Thiên Chúa đối thủ với con người ( như trong huyền thoại Lưỡng Hà) hay tưởng tượng một Thiên Chúa thèm khát hy lễ người sống (như các tôn giáo vùng Ca-na-an). Khi dân It-ra-en vừa vào đất Ca-na-an, họ gần gũi với dân bản xứ có tôn giáo đòi hỏi hy lễ người sống, cũng phải khó khăn lắm để cưỡng lại khỏi bị ảnh hưởng, nhưng không phải lúc nào cũng thành công. Khi mọi sự tồi tệ, sợ chiến tranh, sợ tai ương, ai cũng có thể làm bất cứ điều gì. Trong những lúc ấy, nếu có ai thuyết phục để vị thần nào đó ban cho điều ta ước muốn, thì chúng ta cũng sẵn sàng làm mọi sự…Vì thế hồi thế kỷ thứ VIII trước CN vua A-khát đã tế lễ con trai ông để cứu vương quốc của mình. Cũng chính trong giai đoạn ấy được viết về sự thử thách ông Ap-ra-ham trong sách Sáng thế. Sự khám phá tuyệt vời của Ap-ra-ham là Chúa muốn mọi người được sống, không có cái chết nào tôn vinh Ngài. Chúa không muốn của lễ loại ấy… «15 Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Người ». Vì thế chúng ta hiểu vì sao bài thánh vịnh này được đề nghị cho chúng ta như tiếng vang cho bài tường thuật về cuộc thử thách ông Áp-ra-ham.

Sự khám phá ra «15 Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Người » không phải lúc nào cũng được nhớ đến. Con rắn trong vườn Địa Đàng ám chỉ Thiên Chúa muốn con người phải chết…và chính Thánh Kinh quả quyết điều ấy là một chước cám dỗ không bao giờ nên sa ngã. Nhưng sở dĩ Thánh Kinh nhấn mạnh như thế là vì sự cám dỗ ấy không ngớt trở đi trở lại, cho rằng Thiên Chúa là một đối thủ ganh tị với sự tự do của chúng ta. Chúa có vẻ xem mạng sống chúng ta như một trò chơi tuỳ sở thích. Dĩ nhiên quan hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa hệ tại hình ảnh chúng ta tưởng tượng về Ngài. Trong mô hình ngoại đạo, có thể nói có hai giai đoạn : Trước hết con người mong muốn điều gì đó ; kế đến giai đoạn thứ hai để đạt tới mục đích, con người thử tán tỉnh thần thánh bằng đủ mọi cách, kể cả tế lễ người, nếu cần. Ngược lại bài thánh vịnh hôm nay đề nghị một thái đô của đức tin, tức là đi ngược hẳn lại mô hình kia. Cũng có hai giai đoạn nhưng ngược lại.

Giai đoạn đầu, chính Chúa lấy sáng kiến. Ngay từ đầu Ngài lấy sáng kiến ; với A-đam, với Nô-ê, với Áp-ra-ham mỗi lần chính Chúa nhắc lại sự hiện diện của Ngài và Giao Ước để con người hạnh phúc chứ không phải vì quyền lợi chi của Ngài, Thiên Chúa của họ. Thế rồi dân chúng đau khổ bên Ai-cập, Thiên Chúa đến giải cứu : « Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng.8 Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập…Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai-cập.10 Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập. » (Xh3,7…10)  Và Chúa đã giải thoát dân Ngài.

Giai đoạn thứ hai, để đáp lại - và chỉ để đáp lại mà thôi - dân chúng cảm tạ Thiên Chúa, nhìn ra công trình của Ngài : « 12  Biết lấy chi đền đáp CHÚA bây giờ  vì mọi ơn lành Người đã ban cho ? Kể từ nay lễ tạ ơn không chỉ được cử hành bằng những của lễ trong Đền Thánh mà còn nhất là trong cách sống hằng ngày bằng vâng phục thánh ý Chúa : (các câu 17-19 không được đọc hôm nay ) « 17  Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh ĐỨC CHÚA. 

18  Lời khấn nguyền với CHÚA, tôi xin giữ trọn,  trước toàn thể dân Người,

19  tại khuôn viên đền CHÚA, giữa lòng ngươi, hỡi Giê-ru-sa-lem ! Ha-lê-lui-a »

Dĩ nhiên, bài Thánh Vịnh này là một trong các thánh vịnh « ha-len » (các Tv từ 113 đến 118 được hát trong ngày Lễ Vượt Qua Do Thái, sau bữa cơm). Chúa Giê-su đã hát bài này ngày thứ Năm Tuần thánh, thánh sử Ma-thêu nói : « 30 Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu » (Mt 26,30) . Và thật lạ lùng mối quan hệ giữa thánh vịnh này với thánh vịnh 22 Chúa đọc trên thập giá : « 2 Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao? » (Tv22,2). Bài này và bài kia cả hai đều gợi lên sự đau khổ. Chúng ta vừa nghe tiếng kêu ngày Thứ Sáu trên thập giá, câu này đáp lại câu 10 không được đọc hôm nay : « 10 Tôi đã tin cả khi mình đã nói : "Ôi nhục nhã ê chề ! ». Cả hai bài kết thúc bằng lời tạ ơn. Tv 21 (22) (26 ,24-25) :

« 26 Chịu ơn Người, tôi dâng lời ca tụng, ngày đại hội toàn dân. Điều khấn nguyền, tôi xin giữ trọn trước mặt những ai kính sợ Người.

24 Hỡi những ai kính sợ ĐỨC CHÚA, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người!  Dòng dõi Ít-ra-en tất cả, nào một dạ khiếp oai!

25 Bởi vì Chúa đã chẳng coi thường, chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ, cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng đã thương nghe lời cầu cứu »

Như một tiếng vang bài Thánh Vịnh chúng ta hôm nay cũng đi tới một quyết định trong hai câu cuối 18-19 (không được đọc hôm nay) : « 18 Lời khấn nguyền với CHÚA, tôi xin giữ trọn,  trước toàn thể dân Người, 19  tại khuôn viên đền CHÚA, giữa lòng ngươi, hỡi Giê-ru-sa-lem ! Ha-lê-lui-a. »

***

 

Tác giả: Marie-Noëlle Thabut                       
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions


Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân              

Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng                

 


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com