BÀI ĐỌC 1 (Đnl 6, 2-6)
Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe đây: Ngươi hãy yêu mến Chúa hết lòng ngươi.
Trích sách Đệ Nhị Luật
.2 Như vậy anh (em) cũng như con cháu anh (em) sẽ kính sợ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em), và anh (em) sẽ được sống lâu.
3 Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy anh (em) sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh (em), đã phán với anh (em).
4 Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất.
5 Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em)
.6 Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào lòng
Bài này hẳn là một trong những bài quan trọng nhất Cựu Ước. Sự kiện nằm trong vị trí các sách Thánh Kinh đầu tiên của chúng ta, không có nghĩa rằng bài được viết lúc ban đầu; trái lại, đây là kết quả suy tưởng qua nhiều thế kỷ sau khi ra khỏi Ai-cập. Để thật sự đi sâu vào ý nghĩa của bài này phải biết (tốt nhất có thể) lịch sử sách Đệ Nhị Luật. Chúng ta đang vào khoảng năm 1250 trước CN với ông Mô-sê và cuộc giải thoát khỏi Ai-cập. Nhập cư vào Đất Hứa vào khoảng năm 1200; mười hai chi tộc chia đất và chiếm hữu vùng đất của họ. Mỗi người tự lo cho mình, nhưng giữ chung một mối liên hệ là lòng tin vào Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát họ khỏi Ai-cập. Ông Mô-sê không để lại một tài liệu nào về đời ông; ông chỉ sở hữu hai Bia Lề Luật bằng đá, nhưng người ta truyền miệng nhau những lời răn dạy từ đời này sang đời kia.
Khi thế kỷ thế kỷ này sang thế kỷ khác qua đi, có lúc người ta thấy nhu cầu viết lại những yếu tố quan trọng. Tùy các tài liệu ấy viết ra ở đâu, mỗi tài liệu mang sắc thái đặc biệt thuộc về nơi ấy. Điều gì viết trong hoàng cung vua Sa-lô-mon vào thế kỷ thứ X mang một sắc thái khác với các bài viết hồi thế kỷ thứ VIII trong vương quốc Miền Bắc, trong ấy thường vang lên những lời rất khắt khe của các ngôn sứ A-mốt hay Hô-sê. Có lẽ trong vòng thân cận của hai vị này, được nảy sinh trọng tâm của quyển Đệ Nhị Luật ngày hôm nay. Trong lúc vương quốc Miền Bắc bị quân Át-sua tàn phá, các người Lê-vi trốn về Giê-ru-sa-lem, đem theo những gì quý giá nhất, đó là những cuộn sách còn giữ lại những giáo huấn từ ông Mô-sê do các ngôn sứ còn truyền lại. Lúc bấy giờ họ thêm vào những bài học rút ra từ những thảm kịch diễn ra trong Miền Bắc này: phải chi những anh em Miền Nam có thể nghe theo lời ông Mô-sê và các tiên tri, họ sẽ tránh được những đau khổ cho chính họ, không như những người đi trước.
Sau này, các tài liệu ấy còn trải qua nhiều cuộc phiêu lưu: được dấu kín trong Đền Giê-ru-sa-lem, dưới thời một ông vua phạm thượng, và được tìm lại gần như ngẫu nhiên, năm 622, dưới vương triều vua Giô-át, vị vua thánh đức này dựa vào những lời dạy từ các tài liệu ấy để khởi đầu một cuộc canh tân tôn giáo. Thế rồi, khi các tai họa giáng xuống vương quốc Miền Nam (Vua Na-bu-kô-đô-nô-so chiếm Giê-ru-sa-lem năm 587) đây là lúc phải rút ra bài học để khi đi đày trở về nước: dù Đất được Chúa hứa nhưng cũng phải tỏ ra xứng đáng. Từ đó chữ «hãy nghe đây» rất được nhấn mạnh trong các bài giảng, gần như là những lời cảnh báo.
Có lẽ đó là cách sách Đệ Nhị Luật trước mắt của chúng ta được sinh ra theo dòng thời gian và theo lịch sử đầy biến động của dân Chúa chọn (tên của nó bằng tiếng Hy-lạp có nghĩa là «Luật thứ hai», bởi vì, một cách nào đó, là cách phát biểu lần thứ hai của các giới răn từ ông Mô-sê) Bây giờ chúng ta đã biết rõ để có thể hiểu bài của chúng ta ngày hôm nay.
Thật vậy, đây là cách ôn lại thời Xuất Hành và những lời dạy của ông Mô-sê, sau khi ngài đã qua đời từ lâu, nhưng đây là lúc cấp bách phải nhắc lại trong Miền Nam này những điều Giao Ước đòi hỏi và lắng nghe một cuộc đối thoại trong chiều sâu: « 3 Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy anh (em) sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh (em), đã phán với anh (em). Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA Duy nhất.» (c3-4)
Câu sau cùng: «Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất» trở thành lời cầu nguyện hằng ngày của dân Do Thái. Đối với họ là lời kinh quan trọng như Kinh Lạy Cha của chúng ta. Câu này quan trọng đến nỗi chữ đầu (Nghe đây) và chữ cuối (Duy nhất) được viết hoa trong các Thánh Kinh. Đó là lời kinh bất hủ «Sê-ma Ít-ra-en. Đó là lời kinh được đọc sáng và chiều từ ba bốn tuổi. Tất cả định mệnh của Ít-ra-en nằm trong câu ấy, có lẽ từ hai chữ chồng lên nhau (Nghe đây và Duy nhất). Ít-ra-en, dân được chọn, nếu chúng ta còn nhớ, cái tên này gắn liền với một cuộc chiến hi hữu! Vì sau một đêm trực chiến với thiên thần (trong khúc sông cạn Giáp-bốc, một nhánh sông Gio-đan, xứ Giót - đa - ni hiện nay) ông Gia-cóp nhận từ đối thủ tên «Ít-ra-en», có nghĩa chính xác, được ghi trong sách Sáng Thế «Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Gia-cóp nữa, nhưng là Ít-ra-en, vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng.» (St32, 29). Sách Đệ Nhị Luật này luôn nhắc lại phải «Nghe» Thiên Chúa cho cái dân tộc lúc nào cũng muốn đối lại với Thiên Chúa, tranh đấu với Thiên Chúa (như ông Mô-sê nói cái dân cứng cổ). Chính cái dân này không ngớt phải bị bắt buộc nhìn nhận cam chịu và nghe theo, mới có thể có được tự do và hạnh phúc.
Nói «cam chịu» không quá đáng chút nào! Tài liệu biểu lộ nét này rất rõ ràng. Sau đây là vài dòng tuyệt vời: «Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào lòng.7 Anh (em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy,8 phải buộc những lời ấy vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu,9 phải viết lên khung cửa nhà anh (em), và lên cửa thành của anh (em).» (Đnl6, 6-9). Đây là một cách rất đẹp để nói rằng trong mỗi lúc, trong bất cứ việc gì đang làm, tâm trí người tín hữu phải luôn gắn bó với những điều răn được ban, vì hạnh phúc của họ. Nhân dịp này chúng ta lưu ý tầm quan trọng của việc truyền lại đức tin cho con cháu: «Như vậy anh (em) cũng như con cháu anh (em) sẽ kính sợ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em)» (c2)
Cụm chữ «ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh (em)» cũng gợi lên sự truyền đức tin từ bao thế kỷ. Đây hẳn là một trong bí quyết tồn tại của đức tin Do Thái trải qua suốt lịch sử.
Những lời viết trong sách Đê-nhị-luật được tuân giữ, có thể nói từng chữ qua cách thực hiện đeo «bùa» (Do thái gọi là Tefillin); gói vuông bằng da đen được các tín hữu đeo trên trán và trên cánh tay để đọc kinh mỗi ngày. Trong những gói vuông ấy chứa đựng những cuộn giấy được ghi những kinh trong đó có kinh Sê-ma Ít-ra-en [«phải buộc những lời ấy vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu, (Đnl6, 8)]
Cũng như thế cái gọi là «Mezouna» theo tiếng Do Thái, đó là một gói nhỏ treo trên cửa nhà và trên cửa vào các thành phố «phải viết lên khung cửa nhà anh (em), và lên cửa thành của anh (em)» (Đnl6, 9). Ngay cả ngày hôm nay, sự trung tín dân tộc được chọn vẫn được thấy trong cách thực hiện những điều ấy hằng ngày. Ít-ra-en không bao giờ quên lời kêu gọi của Đệ-nhị-luật.
***
THÁNH VỊNH (Tv17, 2-4 47-51) (Trùng với Tv CN XXX TN A)
Đáp ca: "Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa."
2 Con yêu mến Ngài, lạy CHÚA là sức mạnh của con;
3 lạy CHÚA là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con;
lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn,
là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.
4 Tôi kêu cầu CHÚA là Đấng xứng muôn lời ngợi khen,
và tôi được cứu thoát khỏi quân thù.
47 ĐỨC CHÚA vạn vạn tuế!
Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn.
Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi,
51Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Người đã lập. Chúa hằng ưu ái Đấng Người đã xức dầu tấn phong.
Đọc bài thánh vịnh này, chúng ta có thể nghĩ «lúc nào cũng có bấy nhiêu chuyện lặp đi lặp lại»; cá nhân tín hữu, vua Đa-vít hay cả toàn dân đều có thể nói lên sự thật qua các lời này: «vì yêu thương tôi, nên Người giải thoát.» (c20), đấy là nội dung đức tin: lòng xác tín Chúa yêu thương mỗi người một cách cá biệt và gọi mình sống tự do; không thể có đức tin thực sự khi nào chưa có trải nghiệm qua cách này hay cách khác sự hiện diện của Chúa, ít nữa đủ để cậy trông vào sự hiện diện đó cho tương lai.
Vua Đa-vít đã sống trải nghiệm ấy một cách thực tế. Bị vua Sa-un đánh đuổi vì xem là một đối thủ đáng ngại, Đa-vít được giải thoát nhờ một phép lạ thật sự. Và sách thứ hai, Tiên tri Sa-mu-en nói rằng vua Đa-vít đã hát bài thánh vịnh này để tạ ơn Chúa đã giải thoát mình khỏi tay nghịch thù, trước hết là khỏi Sa-un; nếu bạn tìm hiểu sách Tiên tri Sa-mu-en vào chương 22 sẽ thấy rất giống gần như trọn vẹn bài thánh vịnh 17 (18) này. Điều này không chứng minh cho lịch sử rằng vua Đa-vít đã nói lên nguyên văn bài này, nhưng tác giả sách Sa-mu-en nhận thấy nội dung bài thánh vịnh đặc biệt thích hợp cho vua Đa-vít.
Câu truyện này được kể lại trong hai sách Tiên tri Sa-mu-en; vào thời ấy, vua chính thức Ít-ra-en, được Thiên Chúa chọn và xức dầu phong vương không phải là vua Đa-vít (chưa phải lúc ấy), nhưng là vua Sa-un, vua đầu tiên Ít-ra-en. Nhưng vương triều của ngài đã bắt đầu và kết thúc rất tồi tệ. Thay vì nghe lời ngôn sứ, ông cố tình bất tuân ngôn sứ và Sa-mu-en không tán thành ông nữa. Lúc ấy ngài chọn Đa-vít, dù còn rất trẻ, sau này nối ngôi Sa-un. Sa-un vẫn giữ tước vương cho đến lúc chết, nhưng phải chịu cảnh thấy đối thủ của mình là Đa-vít lớn lên trong cung điện, càng ngày càng được lòng dân và thành công trong mọi sự. Vì thế lòng hận thù càng ngày càng gay gắt nổi lên trong lòng Sa-un; ông cố gắng loại Đa-vít nhưng không thành công. Có một lần ông đuổi theo Đa-vít, Đa-vít phải tìm nơi trú ẩn trong một vách núi, vì thế có câu: «lạy CHÚA là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con;» (c3) .
Chúng ta cũng được biết vương triều vua Đa-vít là một loạt chiến tranh và thắng trận, và vì lẽ đó ngài tạ ơn, biết rằng chỉ nhờ Chúa và chỉ từ Chúa mà thôi ngài mới được những hồng ân ấy: «Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn,…Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ ; Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua» (c3. 51) Ở đây cũng nhắc chúng ta đến giai đoạn tranh đấu giữa Đa-vít và Gô-li-át, người Phi-li-tinh: Đa-vít trong tay chỉ vỏn vẹn cây phóng đá, đương đầu với tên khổng lồ mang gươm mang giáo, cầm lao; phật ý vì thấy đối thủ ăn mặc trang bị lố lăng, đơn sơ, Go-li-át nói: «Đến đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và dã thú.» (1Sm117, 44) và Đa-vít đáp lại: «Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh ĐỨC CHÚA các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Ít-ra-en mà mày thách thức.» (1Sm17, 45)
Trong lúc ấy toàn dân tộc Ít-ra-en, qua trải nghiệm, ở đây cũng rất thực tế cảm nghiệm sâu sắc từng câu bài thánh vịnh; bài này dài hơn nhiều phần phụng vụ chọn cho Chúa nhật thứ XXXI thường niên hôm nay, nhưng cũng đủ nói lên như tiếng vang trải nghiệm vô cùng phong phú của Ít-ra-en: «CHÚA là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; vì yêu thương tôi nên Người giải thoát; ĐỨC CHÚA vạn vạn tuế! Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn.» (c3; 20; 47).
Trước tiên, trước thời vua Đa-vít rất lâu, cũng có một trải niệm về núi đá là nơi trú ẩn; sách các Thủ lãnh cũng cho vài ví dụ. Nói rằng Chúa là núi đá cho chúng ta, trước tiên là để xác quyết Ngài là ơn cứu độ ta, nơi ta nương tựa an toàn nhất. Ví dụ như trong sách Đệ nhị Luật, bài ca bất hủ của ông Mô-sê về núi đá Ít-ra-en: «Này tôi xưng tụng thánh danh ĐỨC CHÚA, trời đất hãy suy tôn Thiên Chúa ta thờ! Người là Núi Đá: sự nghiệp Người hoàn hảo, vì mọi đường lối Người đều thẳng ngay. Chúa tín thành, không mảy may gian dối, Người quả là chính trực công minh.» (Đnl32, 3-4) Thời ấy người ta tin rằng mỗi dân tộc có một chúa bảo trợ và chấp nhận rằng những dân tộc khác cũng có núi đá của họ nhưng không thể nào bằng núi đá Ít-ra-en; trong bài ca ấy chúng ta có thể đọc câu tuyệt vời này: «Vì núi đá của chúng không phải như Núi Đá của chúng ta.» (Đnl32, 31)
Ông Mô-sê khi nói đến núi đá, ông hẳn còn cho nó một ý nghĩa khác nữa; đây 1à một tiếng vang cuộc giải phóng ra khỏi Ai-cập («vì yêu thương tôi nên Người giải thoát» c20) và cuộc Xuất hành qua sa mạc Si-nai nữa. Suốt cuộc lữ hành dài đăng đẳng, khó nhọc trong nóng bức, đói khát, sống giữa rắn và bò cạp, mặt trời đốt cháy da, sự hiện diện của Chúa, sự ân cần chăm sóc của Chúa là sự cứu trợ cho dân chúng; chăm sóc ân cần đến nỗi làm cho nước chảy ra từ vách đá: đó là giai đoạn bất hủ Ma-xa và Mơ-ri-vơ; nơi ấy dân khát gần đến chết và họ kết án ông Mô- sê đem dân tộc họ đến chỗ chết…Lịch sử cuộc nổi loạn ấy lúc nào cũng ám ảnh ký ức dân Ít-ra-en, vì đó là một ví dụ tiêu biểu cho lòng ngờ vực người tín hữu; tuy nhiên ở đây bài này không gợi lại sự nổi loạn, nhưng lòng nhân từ Thiên Chúa đáp lại sự nổi loạn bằng một ân sủng vĩ đại hơn: «Ở đó, dân khát nước nên đã kêu trách ông Mô-sê rằng: "Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không? "4 Ông Mô-sê kêu lên cùng ĐỨC CHÚA: "Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con! "5 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục Ít-ra-en; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi.6 Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống."Ông Mô-sê đã làm như vậy trước mắt các kỳ mục Ít-ra-en.» (Xh17, 3-6)
Mỗi lần dân Ít-ra-en hát bài thánh vịnh này, gợi lại sự hiện diện trung thành lúc nào cũng ở cạnh bên họ Đấng mang Tên: «Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.» (Mt1, 23). Nhưng lời nhắc nhở này là nguồn họ cậy trông, vì cũng như vua Đa-vít dân tộc này chờ đợi những lời hứa của Thiên Chúa tín trung thực hiện, đó là Đấng Mê-si-a đến cứu độ vĩnh viễn cả nhân loại: «47 ĐỨC CHÚA vạn vạn tuế! Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi, 51 Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Người đã lập. Chúa hằng ưu ái Đấng Người đã xức dầu tấn phong,» (c47.51)
***
Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions
Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng