"Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa!"
7 Chúa xử công minh cho người bị áp bức,
ban lương thực cho kẻ đói ăn.
CHÚA giải phóng những ai tù tội,
8 CHÚA mở mắt cho kẻ mù loà.
CHÚA cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên,
CHÚA yêu chuộng những người công chính.
9 CHÚA phù trợ những khách ngoại kiều,
Người nâng đỡ cô nhi quả phụ,
nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.
Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.
Hôm nay chúng ta chỉ đọc 4 câu của bài Thánh Vịnh này gồm 10 câu, vì thế chúng ta không nghe được hai chữ Ha-lê-lui-a! của câu đầu và câu cuối. Sở dĩ bài này được đóng khung bằng chữ Ha-lê-lui-a - có nghĩa là ngợi khen Thiên Chúa - vì trọn bài thánh vịnh này là lời ngợi khen và biết ơn Thiên Chúa. Bài được viết sau khi lưu đày Ba-by-lon về, có thể để dâng hiến đền thờ vừa mới được trùng tu.
Đền thánh bị phá huỷ năm 587 trước CN do quân của vua Ba-by-lon, Na-bu-cô-đô-nô-do. Năm mươi năm sau (năm 538tr CN), khi vua Ki-rô xứ Ba-tư chiến thắng Ba-by-lon cho phép dân It-ra-en, đang bị làm nô lệ ở Ba-by-lon, trở về It-ra-en và xây dựng lại Đền Thờ. Chúng ta cũng biết điều này không dễ, có những mối bất hoà trầm trọng xảy ra giữa những người đầy nhiệt huyết vừa mới hồi hương và những người đã chiếm vùng đất ấy trong lúc những người kia bị lưu đày. Phải cần nhiều nỗ lực và tính bền bỉ của các ngôn sứ Khác-gai và Da-ca-ri-a, các công trường mới được khởi công và hoàn thành. Tất cả kéo dài từ năm 520 đến năm 515 (trước CN), dưới triều đại vua Đa-ri-ô. Buổi lễ dâng hiến Đền Thờ vừa mới được trùng tu được diễn ra trong niềm hân hoan và sốt sắng: «16 Con cái Ít-ra-en, các tư tế, các thầy Lê-vi và những người lưu đày trở về, hân hoan cử hành lễ khánh thành Nhà Thiên Chúa » (Et 6, 16)
Bài thánh vịnh này đượm đầy niềm vui trở về quê hương. Một lần nữa, Thiên Chúa lại đến chứng minh lòng trung tín với Giao Ước. Xưa kia trong cuộc Xuất Hành và lúc rời khỏi Ai-cập, và bây giờ lúc rời Ba-by-lon Ngài đã nâng dân Ngài lên, Ngài đã « trả thù » cho họ, theo nghĩa của tiên tri I-sa-i-a. Khi dân It-ra-en đọc lại lịch sử dân tộc, họ không thiếu chi, bằng chứng rằng Thiên Chúa luôn luôn đồng hành với họ để tranh đấu cho tự do: « 7 Chúa xử công minh cho người bị áp bức… CHÚA giải phóng những ai tù tội ». Trong hành trình sa mạc, trong cuộc Xuất Hành, Thiên Chúa đã ban bánh Man-na và chim cút làm lương thực: « ban lương thực cho kẻ đói ăn ». Và như thế, dần dần dân chúng khám phá ra một Thiên Chúa triệt để đứng về phía những kẻ bị áp bức, chữa lành người mù loà, nâng cao bất cứ những người bé nhỏ nào. Đó không phải là những ý tưởng mọi người chấp nhận dễ dàng, một cách tự phát về một Đấng Sáng Tạo vũ trụ, phải có một sự mặc khải qua Thánh Kinh để mọi người chấp nhận sự biểu hiện kỳ lạ này về Thiên Chúa. Đây là một niềm hạnh phúc và vinh hạnh của dân tộc It-ra-en được mặc khải cho nhân loại, một Thiên Chúa tình yêu và giàu lòng thương xót. Giàu lòng thương xót, có nghĩa là « chạnh lòng thương trước cảnh đau khổ ». Các bạn hẳn còn nhớ câu bất hủ trong Chúa nhật thứ XXX thường niên năm C, trong sách Huấn Ca (Hc 35, 15) « 15 Nước mắt quả phụ lại không giàn giụa trên gò má.. ». Bài Thánh Vịnh không nói với chúng ta những gì khác hơn: « Người nâng đỡ cô nhi quả phụ ». Đến lượt dân chúng được mời gọi bắt chước Thiên Chúa, sống với lòng thương xót như thế, đối với những người bị áp bức đủ điều. Và các bạn hẳn nhận xét rằng, để chắc chắn dân chúng tuân theo lòng thương xót của Thiên Chúa, bộ Luật của It-ra-en gồm nhiều điều lệ bảo vệ cô nhi quả phụ và những người khách tha hương. Về phần các ngôn sứ, các ngài dựa vào những tiêu chuẩn ấy để xét lòng trung tín của It-ra-en đối với Giao-ước.
Hiểu sâu xa hơn, chúng ta nhận thấy tín hữu Do Thái, một khi dần dần sống trong Giao Ước với Thiên Chúa họ được cảm hoá từ bên trong: « Chúa ban lương thực cho kẻ đói ăn », đúng là lương thực…nhưng trong lòng mỗi chúng ta có một cơn đói sâu xa hơn, cho những người đói cách ấy, Chúa ban cho bánh hằng sống, là Lời của Ngài…«8 CHÚA mở mắt cho kẻ mù loà » có những mù loà trên phương diện khác, trầm trọng hơn, đối với họ, Chúa làm mở mắt ra: « CHÚA giải phóng những ai tù tội », có những gông xiềng khác hơn những nhà tù, đó là những xiềng xích hận thù, kiêu ngạo và ghen ghét… người tín hữu có thể minh chứng rằng Chúa tháo gỡ dần dần cho họ khỏi trái tim bằng đá.
Vì thế chúng ta hiểu vì sao bài Thánh Vịnh được nằm giữa hai chữ Ha-lê-lui-a. Chúng ta hẳn còn nhớ theo truyền thống Do Thái, nghĩa của chữ Ha-lê-lui-a: « Thiên Chúa đã đem chúng ta từ kiếp nô lệ đến tự do, từ phiền muộn đến chứa chan niềm vui, từ tang tóc đến hân hoan, từ bóng tối đến ánh sáng chiếu loà, từ tình trạng nông nô đến được cứu độ. Vì thế chúng ta hãy cùng hát trước thánh nhan Ngài, Ha-lê-lui-a. ».
Dĩ nhiên những Ki-tô hữu đọc lại bài Thánh Vịnh này và áp dụng cho Chúa Giê-su Kitô: Chẳng những Ngài nuôi dưỡng người thời ấy bằng cách hoá bánh ra nhiều, ngày nay Ngài ban cho mỗi thế hệ được nhận phép Rửa, bánh của Thánh Thể Ngài. Chính Ngài cũng quả quyết rằng: « 12 …Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. » (Ga 8, 12). Chính nơi Ngài, từ nay nhân loại có thể được chấp nhận hoàn toàn đến với tự do và sự sống: sự Phục Sinh của Ngài là bằng chứng của sự chết thể xác không cầm buộc người được nhận phép Rửa Tội: « CHÚA giải phóng những ai tù tội ».
Thánh kinh quả quyết rằng chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Có lúc chúng ta tự hỏi như thế là thế nào! Chúng ta tìm thấy nơi đây một lời giải thích và một khích lệ: câu trả lời là mỗi khi chúng ta can thiệp cho một người đau khổ, bất cứ đau khổ ra sao- mù loà, câm điếc, tù tội, người xa lạ- là chúng ta giống hình ảnh Thiên Chúa. Điều khích lệ là mỗi khi bạn làm điều chi cho một người bé nhỏ hơn bạn, là bạn làm cho Nước Trời đến gần hơn …Một ngày có một người học giáo lý tân tòng vừa mới khám phá phép lạ Chúa Giê-su hoá bánh ra nhiều, hỏi giáo lý viên: « Tại sao ngày nay Chúa không làm như thế để nuôi những người đói nghèo ? » Sau một phút thinh lặng, có tiếng thì thầm: « Có lẽ Ngài trông đợi chúng ta làm ».
***