Lời Chúa CN

BÀI ĐỌC 2 CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH Năm A (Ep 3, 2-3a.5-6) 08/01/2017

"Bây giờ được tỏ ra rằng các dân ngọai được đồng thừa bởi lời hứa."

Trích thư Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Ê-phê-sô.

 

2 Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em.

3 Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây.

5 Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người.

6 Mầu nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.

 

Đoạn này được trích từ thư Thánh Phao-lô gửi tín hữu Ê-phê-sô, chương 3. Thế nhưng trong chương thứ nhất của thư này, Thánh Phao-lô có một phát biểu bất hủ về kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Ở đây chúng ta cũng có cùng một sứ điệp. Tôi xin nhắc lại một đoạn của chương 1: « 9 Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. 10 Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô. Cũng trong Đức Ki-tô ».

Trong đoạn được đọc hôm nay, chúng ta tìm lại hoàn toàn quan điểm này. Hơn nữa, câu đầu ngài nói: « Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi ». Cụm chữ « thực hiện kế hoạch của Ngài » không có trong sách bài đọc, nhưng có trong Thánh Kinh. « Kế họach Thiên Chúa » hay « kế họach yêu thương » đều như nhau.

Chúng ta tìm thấy chữ « mầu nhiệm » ba lần trong bài hôm nay. Mầu nhiệm, đối với Thánh Phao-lô không phải là một bí mật Chúa giữ riêng lấy cho mình; trái lại Ngài muốn cho chúng ta vào chia sẻ những gì thâm sâu trong Ngài. Thánh Phao-lô nói ở đây: « 3 Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô ». Mầu nhiệm ấy là kế hoạch yêu thương của Ngài, dần dần Chúa mặc khải cho chúng ta. Suốt lịch sử Thánh Kinh, chúng ta khám phá ra Chúa triển khai một phương pháp sư phạm phong phú, chậm rãi, nhẫn nại để đem dân Ngài chọn vào mầu nhiệm của Ngài. Chúng ta có trải nghiệm ấy khi chúng ta không thể cùng một lúc dạy tất cả cho một đứa trẻ con: ngày qua ngày chúng ta nhẫn nại dạy tuỳ tình huống. Chúng ta không thể dạy trước cho một đứa trẻ những bài học lý thuyết về sự sống, sự chết, hôn phối, gia đình… cũng như  các mùa trong năm, những giống hoa: đứa trẻ sẽ khám phá ra gia đình trong những ngày vui ngày buồn thật sự; từng loại hoa, nó cũng cùng trải qua các mùa như chúng ta… khi gia đình có đám cưới, có một đứa trẻ được sinh ra, một đám tang. Khi ấy đứa trẻ sống cùng với chúng ta những sự kiện ấy và dần dần chúng ta đồng hành với nó để khám phá ra cuộc sống.

Thiên Chúa cũng triển khai một thứ sư phạm đồng hành ấy với dân Ngài và mặc khải dần dần về Ngài. Đối với Thánh Phao-lô rõ ràng sự mặc khải ấy đã bước qua một giai đoạn quyết định với Chúa Ki-tô. Lịch sử nhân loại được chia ra làm hai giai đoạn: trướckhởi đầu từ Chúa Ki-tô: « Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. » Điều này có thể làm cho chúng ta hân hoan nhận thấy dương lịch chúng ta đếm năm thành hai giai đoạn, trước và sau Công Nguyên. (Công Nguyêntrong tiếng La-tinh là Anno Domini, viết tắt AD hay A.D, nghĩa là Năm của Chúa hay Kỉ nguyênKitô, theo Wikipedia).

Mầu nhiệm ấy, ở đây, Thánh Phao-lô gọi đơn sơ là « mầu nhiệm Chúa Ki-tô », nhưng đây là chúng ta biết ngài muốn nói gì, đó là Chúa Ki-tô là trung tâm của thế giới và của lịch sử, một ngày cả vũ trụ sẽ qui tụ về chung quanh Ngài, như các chi gắn với thân thể. Hơn thế nữa, trong câu: «quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô. Cũng trong Đức Ki-tô, » (Ep 1, 10), chữ thủ lãnh theo tiếng Hy-lạp là đầu. Đây là ngài muốn nói cả nhân loại hoàn vũ, ở đây thánh nhân xác định: « Mầu nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ».(c5)

Có thể nói cách khác: gia nghiệp là Chúa Giê-su Ki-tô… lời hứa là Chúa Giê-su Ki-tô, Thân thể là Chúa Giê-su Ki-tô, kế hoạch yêu thương là Chúa Giê-su Ki-tô, vì Chúa Giê-su Ki-tô là trung tâm của thế giới, toàn vũ trụ qui tụ nơi Ngài. Trong Kinh Lạy Cha, khi chúng ta đọc, ý Cha thể hiện, đó là chúng ta nói đến kế hoạch của Thiên Chúa, và dần dần cứ lặp đi lặp lại câu ấy chúng ta thấm nhuần lòng ao ước một ngày kia kế hoạch ấy sẽ hoàn toàn được thực hiện.

Thì đây kế hoạch của Thiên Chúa là cho toàn nhân loại, không chỉ cho dân Do Thái. Đó là khi chúng ta nói tính cách hoàn vũ của dự án Thiên Chúa. Đó là một xác tín của dân Ít-ra-en vì điều này đuợc biết từ lời hứa chúc phúc toàn thể nhân loại cho tổ phụ Áp-ra-ham: « Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc » (St 12, 3). Và các tiên tri không ngừng lặp lại: đoạn sách I-sa-i-a trong Bài Đọc1 hôm nay cũng trong chiều hướng ấy. Và sở dĩ các Tiên tri thường nhấn mạnh, là vì chúng ta có khuynh hướng quên đi.

Cũng như thế, trong thời Chúa Ki-tô sở dĩ Thánh Phao-lô xác định: « trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa » vì điều này không phải tự nhiên mọi người nghĩ như thế. Thì đây, chúng ta phải có một chút cố gắng tưởng tượng để hiểu. Chúng ta không ở trong các tình huống của những người đương thời với Thánh Phao-lô: đa số chúng ta không có gốc Do Thái, và cũng không ngạc nhiên được dự phần cứu độ từ Đấng Mê-si-a. Còn có khi, sau hơn 2000 năm Ki-tô giáo, chúng ta có khuynh hướng quên rằng Ít-ra-en là dân Chúa chọn, vì, hơn nữa, Thánh Phao-lô nói: « Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình » (2Tm 2, 13). Ngày nay chúng ta có khuynh hướng tin rằng chúng ta là những chứng nhân duy nhất của Thiên Chúa trên thế gian. Nhưng trong thời Chúa Ki-tô thì trái lại. Dân Do Thái là những kẻ đầu tiên được mặc khải về Đấng Mê-si-a: Chúa Giê-su sinh ra là người Do-thái. Đó là điều lô-gíc với chương trình của Thiên Chúa và việc tuyển chọn dân Ít-ra-en. Dân Do Thái là dân Chúa chọn, họ được Chúa chọn làm tông đồ, những chứng nhân, và là công cụ của sự cứu độ cả nhân loại. Và chúng ta cũng biết người Do-thái có khi không chấp nhận những người trước kia trong dân ngoại vào cộng đồng của họ. Thánh Phao-lô đến nói với họ: hãy chú ý… « kể từ đây dân ngoại cũng có thể là tông đồ, và chứng nhân của sự cứu độ ». Nhân dịp này tôi cũng xin lưu ý, Thánh Mát-thêu trong bài Phúc Âm về cuộc thăm viếng của các nhà chiêm tinh - được đọc trong Lễ Hiển Linh - cũng nói cho chúng ta hoàn toàn giống như thế.

Những chữ sau cùng của bài này nhắc lại: « trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ». Nếu tôi hiểu không lầm, kế hoạch yêu thương của Chúa cũng dành cho chúng ta. Thiên Chúa kết hợp chúng ta vào kế hoạch yêu thương của Ngài: các nhà chiêm tinh thấy xuất hiện một ngôi sao lạ, họ lên đường ra đi; đối với những người đương thời với chúng ta, không có ngôi sao lạ, nhưng phải có những chứng nhân của Tin Mừng.

***

Tác giả: bà Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: http://www.eglise.catholique.fr/
Dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com