"Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khát khao Chúa."
2 Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ,
ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.
Linh hồn con đã khát khao Ngài,
tấm thân này mòn mỏi đợi trông,
như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.
3 Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện,
để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.
4 Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống,
miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương.
5 Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng,
và giơ tay cầu khẩn danh Ngài.
6 Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc,
môi miệng con rộn rã khúc hoan ca.
8 Quả thật Ngài đã thương trợ giúp,
nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui.
9 Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó,
giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì.
Câu thứ tám trên đây rất đẹp: « nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui », nhưng đồng thời cũng rất đáng ngạc nhiên! Thực ra phải hướng tư tưởng vào tận bên trong Đền Giê-ru-sa-lem (dĩ nhiên là trước khi vua Na-bu-cô-đo-nô-so phá huỷ năm 587 trước CN)… và cũng phải tưởng tượng chúng ta là tư tế hay người Lê-vi. Thì đây, chúng ta đang ở trong một nơi « Thánh-Cực Thánh » có Hòm Bia Giao Ước. Hãy coi chừng, ngày nay nói đến Hòm Bia chúng ta nghĩ là một công trình kiến trúc đồ sộ: người dân Paris sẽ nghĩ như Tháp « Arche de la Défense » ở cửa Đông Paris… Ở Ít-ra-en thì khác! Đó là một thứ gì thật thánh thiêng: một cái hòm bia quý giá nhưng bằng gỗ và nhỏ được bọc vàng từ trong đến ngoài, chứa các Bia Lề Luật. Trên hòm này có hai tượng thiên thần vĩ đại canh giữ.
Các thiên thần này không do Ít-ra-en sáng tạo: chữ này đến từ Mê-đô-pô-ta-mi-a. Đây là những tạo vật thần thiêng mình sư tử, mặt người, và nhất là có hai cánh khổng lồ. Ở Mê-đô-pô-ta-mi-a, những « thiên thần » này được sùng bái như những nhân vật thần thánh… Ở Ít ra-en trái lại, những nhân vật này được giải thích chu đáo chỉ là những tạo vật, và được xem như những bảo vệ Hòm Bia, nhưng những đôi cánh là những bậc thang để bước lên ngai Thiên Chúa. Bài này miêu tả một thầy tư tế đang cầu nguyện trong Đền, dưới bóng hai cánh thiên thần, lòng súc cảm được Thiên Chúa của mình trìu mến ấp ủ, từ hoàng hôn cho đến lúc đêm về.
Các từ ngữ khác cũng được lấy từ những lời kinh của các thầy Lê-vi: « 3 Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện… 4 Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống » (suốt đời họ ca tụng Thiên Chúa) « giơ tay cầu khẩn danh Ngài » (Các thầy Lê-vi cầu nguyện dang hai tay)… « 6 Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc » (ngụ ý nói nhiều khi sau lễ có những buổi tiệc chung cho cả cộng đồng; hơn nữa, các thầy Lê-vi nhận một phần thịt từ của lễ để dùng)… « 5 Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng » (suốt đời họ sống bên trong Đền thờ).
Thật ra bài thánh vịnh này như một dụ ngôn. Thầy Lê-vi là cả dân tộc Ít-ra-en, từ hoàng hôn lịch sử cho đến tận thế, mừng vui ca tụng sự thân mật Thiên Chúa ban cho họ: « 2 Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa ». Khi nói « từ rạng đông » có nghĩa là từ muôn thuở, dân Ít-ra-en đã tìm Thiên Chúa: « tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. » Ở Ít-ra-en cách nói này rất thực tế: đất hoang khô cằn; chỉ chờ mưa đến để sống lại, đây là một trải nghiệm nhiều ý nghĩa.
Từ rạng đông của lịch sử, Ít-ra-en khao khát Thiên Chúa, một lòng khao khát lớn lao nhất là khi đã được có trải nghiệm được ơn gần gũi thân tình Thiên Chúa đã ban cho họ. Có thể hiểu ở một cấp bậc cao hơn, ngụ ý nói đến trải nghiệm của dân Ít-ra-en trong bài thánh vịnh. Ví dụ như câu: « tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước » có ý nhắc đến thời gian trong sa mạc Si-nai khi ra khỏi xứ Ai-cập và trải nghiệm kinh khủng lúc gần chết khát ở Ma-xa và Mơ-ri-va. Đây là một lời cầu nguyện tuyệt đẹp, lời nguyện phát xuất từ sự nghèo hèn thiêng liêng của chúng ta, như tiếng than người sắp chết khát: « Tôi khát ».
« … con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện », câu này ám chỉ những biểu dương của Chúa trong sa mạc Si-nai, nơi thiêng liêng ấy, dân Ít-ra-en đã chiêm ngắm Ngài ban tặng Giao ước « thấy uy lực và vinh quang của Ngài », trong ký ức dân chúng câu này gợi lên những điều kỳ diệu Chúa làm trong thời Xuất Hành để giải thoát dân Ngài khỏi kiếp nô lệ Ai cập, cũng như câu: « Ngài đã thương trợ giúp ». Ít-ra-en không bao giờ quên câu sau đây Chúa nói với ông Mô-sê: « Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng » (Xh 3, 7)
Khi suy niệm về sự giải thoát này của Thiên Chúa, ta có thể so sánh với chim đại bàng xoè cánh tập cho chim con bay: « 11 Tựa chim bằng trên tổ lượn quanh, giục bầy con bay nhảy, xoè cánh ra đỡ lấy rồi cõng con trên mình » (Đnl 32, 11). Có câu sau đây như tiếng vang trong đoạn nói về nghi thức kết Giao ước: « Ngươi sẽ nói với nhà Gia-cóp…:4 Các ngươi thấy Ta đã xử với Ai-cập thế nào, và đã mang các ngươi như trên cánh chim bằng, mà đem đến với Ta » (Xh 19, 3a-4). Từ đấy hai cánh của tượng thiên thần trong Đền trên Hòm Bia mang một ý nghĩa khác. Đó là đôi cánh có sức che chở của Đấng đã dạy cho Ít-ra-en con đường tự do.
Tất cả những kỷ niệm gợi lên đời sống trong Giao Ước, với sự gần gũi thân tình không rợp bóng, là bằng chứng bài Thánh Vịnh này được viết trong thời kỳ không mấy sáng sủa, lúc mọi người cần bám vào những kỷ niệm đẹp của quá khứ. Thật vậy, các câu cuối không mấy tươi đẹp (các câu không được đọc trong phụng vụ hôm nay) nói lên rõ ràng, có thể nói mãnh liệt, lòng ao ước mọi sự dữ biến đi khỏi trái đất: « 10 Còn những kẻ tìm hại mạng sống con, ước gì chúng phải xuống vực sâu lòng đất ». Ít-ra-en chờ đợi ngày hoàn tất mọi lời hứa của Thiên Chúa, trời mới, đất mới, giải thoát khỏi mọi sự dữ mọi bách hại.
Câu: « ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài » nói lên sự chờ đợi ấy chưa được thoả mãn: Ít-ra-en là một dân tộc luôn chờ đợi, sống trong hy vọng: « 6 Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông » (Tv130, 6). Khi Chúa nói đến trông chờ hay canh gác cũng như trong bài dụ ngôn những trinh nữ khôn và dại (Mt 25) là Ngài muốn nói như thế: luôn tìm Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, cũng như dân Ít-ra-en đoàn dân Ki-tô hữu cũng cầu nguyện như thế, cũng khao khát và chờ đợi như thế: bài thánh vịnh này nằm trong kinh phụng vụ sáng chúa nhật tuần thứ 1: trong phụng vụ Ki-tô giáo ngày chúa nhật là ngày Chúa Phục sinh, ngày ưu tiên để cử hành toàn bộ mầu nhiệm Giao Ước Thiên Chúa với dân Ngài, từ hoàng hôn của lịch sử, trong khi chờ đợi ngày Nước Trời vĩnh viễn đăng quang.
***