"Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triềi đại Người."
Của vua Sa-lô-môn.
Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
2 để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
7 Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
8 Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
12 Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
13 chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
17 Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
« Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương » câu này là một lời cầu nguyện. Còn câu sau « 2 để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn. » là một lời ước mong. Đó là những lời trong lễ phong tân vương. Chúng ta đang trong Đền Giê-ru-sa-lem. Nhưng thật lạ lùng, bài thánh vịnh này được sáng tác và hát sau Ba-by-lon (giữa năm 500 và 100 trước CN) tức là trong thời kỳ Ít-ra-en không có vua. Điều này chứng tỏ lời nguyện và lời ước này không hướng tới một vị vua bằng xương bằng thịt: nhưng liên quan đến một vị vua mọi người chờ đợi, vị vua Thiên Chúa đã hứa, vị Vua-Mê-si-a. Và, vì đó là lời Chúa hứa, thì chắc chắn sẽ được thực hiện.
Niềm tin bất diệt ấy trải dài suốt Thánh Kinh: lịch sử nhân loại có một chủ đích, một ý nghĩa. Chữ ý nghĩa ở đây gồm hai điều: cái gì được biểu đạt, ý nghĩa thường hiểu và điều thứ hai là hướng đi. Thiên Chúa có một kế họach. Kế họach này gợi hứng cho toàn Thánh Kinh, Cựu Ước cũng như Tân Ước: nó mang nhiều tên khác nhau tùy tác giả: « Ngày của Chúa » theo các ngôn sứ, « Nước Trời » theo Thánh Mát-thêu, « Kế họach yêu thương » theo Thánh Phao-lô, nhưng tất cả cũng để chỉ kế họach ấy của Thiên Chúa. Như một người đang yêu, lặp đi lặp lại không ngừng những lời yêu thương, Thiên Chúa không ngưng đề nghị kế hoạch tình yêu của Ngài cho nhân lọai. Kế họach ấy sẽ được thực hiện bởi đấng Mê-si-a, và hướng lên đấng Mê-si-a ấy mà các tín hữu hát những lời nguyện ước trong Đền Giê-ru-sa-lem.
Kế hoạch này, Thiên Chúa đã loan báo ngay trong những lời đầu tiên cho Áp-ra-ham, trong chương 12 Sách Sáng Thế, lúc ấy ông còn tên là Áp-ram. Chúa đã hứa: « 3 Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi » (St 12, 3). Từ bản tiếng Do Thái câu này được dịch ra bằng hai cách, và hai cách này không loại trừ hẳn nhau, trái lại bổ sung cho nhau. Nghĩa thứ nhất là mỗi khi một ai chúc phúc cho nhau, họ lấy Áp-ra-ham làm mẫu gương của sự thành công. Họ nói: « Ước gì bạn thành công như tổ phụ Áp-ra-ham chúng ta » Nghĩa thứ hai: « Qua ngài Áp-ra-ham, nhờ ngài tất cả gia đình trên trái đất sẽ hạnh phúc ».
Tôi thiết tưởng không nên quên vì rất quan trọng, ngay từ ban đầu, rõ ràng các mặc khải trong Thánh Kinh, đều liên hệ toàn nhân lọai. Dân Ít-ra-en từ muôn thuở biết rằng họ được tuyển chọn không để giữ riêng cho mình một bí mật tốt đẹp nhưng là để loan báo cho thế giới kế hoạch của Thiên Chúa. Bài Thánh vịnh này không nói gì khác hơn thế: « Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người (ngụ ý nói Vua-Mê-si-a) được chúc lành, và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc. »
Có một câu khác chúng ta được đọc, nhắc lại lời hứa khác của Chúa cho Áp-ra-ham, lần này trong chương 15 sách Sáng Thế. Thiên Chúa kết Giao Ước với Áp-ram bằng những lời sau đây: «Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát » (St 15, 18). Sau này sách Si-rắc (Huấn ca) gom lại tất cả những lời hứa của Chúa cho Áp-ra-ham. Sách Huấn ca viết: « 21 Vì thế, Người thề hứa với ông: nhờ dòng dõi ông, các dân tộc được chúc lành. Người gia tăng dòng dõi ấy nhiều như bụi đất, tôn hậu duệ ông lên như những vì sao, cho họ được hưởng phần gia nghiệp từ biển này cho tới biển kia, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất. Ông I-xa-ác và ông Gia-cóp » (Hc 44, 21)
Chúng ta thường hay nhạy cảm về dân chủ, có lẽ chúng ta khá ngạc nhiên thầm hỏi, làm sao có thể ao ước có một ông vua, vua này thống trị cả hành tinh: « từ biển này cho tới biển kia, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất! » Các hoàng đế của chúng ta, dù tham vọng đến đâu cũng không dám mơ ước đến như thế… Thế nhưng đừng quên, rốt cuộc dân chúng mới là trung tâm của lời hứa: vị vua ấy chỉ là một công cụ trong tay Thiên Chúa, một công cụ phục vụ toàn dân. Và dân ấy có kích thước là nhân loại. Một nhân loại rốt cuộc sẽ trở nên anh em với nhau và sống trong thái bình, không còn người nào bị sỉ nhục: « 7 Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. »
Lúc ấy sẽ được thực hiện, hòa bình và công lý, hai điều luôn luôn ám ảnh con người từ khởi nguyên. Không phải không có lý do tên Giê-ru-sa-lem theo tiếng Do Thái có nghĩa là « Thành Phố Hoà Bình » - cũng nhưng Bagdad được gọi là « Nhà Hoà bình » vì mọi dân tộc từ muôn thuở đều mơ ước như thế. Và chính đây là một mãnh lực không thể tưởng tượng, sự táo bạo của Thánh Kinh, mặc cho chống đối « mưa gió bão bùng », mặc cho hiện tượng bên ngoài khác hẳn, một ngày kia hòa bình sẽ trở lại. Và bởi vì hòa bình và công lý đi đôi với nhau - một thánh vịnh còn nói: « 11 Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. » (Tv 84, 11) - không còn người nghèo nào trên mặt đất. Lúc ấy trái đất mới thật sự « thánh thiện », như nó phải như thế.
Lý tưởng ấy trải dài suốt Thánh Kinh: sách Đệ nhị luật chép: « 4 Tuyệt nhiên giữa anh (em) sẽ không có người nghèo » (Đnl 15, 4). Bài Thánh vịnh cũng nói điều tương tự: « 12 Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, 13 chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ ». Tất cả bài Thánh vịnh nhắc lại lời hứa của Chúa và thôi thúc ngày ấy đến… chứ không phải Chúa có thể quên lời hứa của Ngài! Trái lại, sở dĩ những người hành hương tề tựu về Đền Giê-ru-sa-lem hát lại bài Thánh vịnh về Vua-Mê-si-a là vì họ biết Thiên Chúa không quên kế hoạch của Ngài.
Khi chúng ta cầu nguyện, không phải để nhắc Chúa một điều gì Chúa có thể không biết hoặc quên đi… Nhưng khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta học nhìn thế gian với cặp mắt Thiên Chúa. Tự đặt mình vào kế hoạch của Ngài để hâm nóng lại lòng tin chúng ta và từ đấy múc lấy nghị lực làm việc hầu chu toàn lời hứa. Vì lẽ hòa bình, công lý và sự cứu rỗi người nghèo và kẻ đau khổ không được thực hiện bằng một chiếc đũa thần. Phần chúng ta là cầu nguyện, xem kế hoạch của Thiên Chúa cũng là của chúng ta, và để Thần Khí hướng dẫn tham gia vào cuộc chiến ấy. Với ánh sáng của Ngài, uy lực của Ngài, ân sủng của Ngài chúng ta sẽ thành công.
***
Tác giả: bà Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: http://www.eglise.catholique.fr/
Dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương