"Áp-ra-ham, người cha dân Chúa, được kêu gọi."
Trích sách Sáng thế.
1 ĐỨC CHÚA phán với ông Áp-ram: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.
2 Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành.
3 Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi;
Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.
Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc."
4 Ông Áp-ram ra đi, như ĐỨC CHÚA đã phán với ông
« Khi ấy ông Áp-ra-ham sống ở Can-đê » (Lnd: câu này không có trong bản dịch Thánh Kinh Việt nam). Lúc ấy ông còn mang tên Áp-ram - chỉ sau này, có thể nói, sau nhiều năm hành hương Áp-ram nhận từ Thiên Chúa tên mới của ông, tên ngày nay chúng ta đều biết, Áp-ra-ham (có nghĩa là cha của vô số con cháu), và thật vậy, chúng ta lũ lượt, ở rải rác khắp mặt đất nhận ông làm cha trong đức tin. Thế mà vỏn vẹn những dòng chữ chúng ta vừa đọc trên đây là văn bản đầu tiên của cả một hành trình đức tin, trước tiên là đức tin Do-thái, dĩ nhiên rồi, sau đó theo thứ tự thời gian, đức tin Ki-tô hữu và của người Hồi giáo.
Ông sống ở Can-đê, tức là xứ I-rắc hiện nay, chính xác là ở mãi cực đông-nam xứ I-rắc, trong thị trấn tên là Our trong thung lũng Êu-phơ-rát, gần vịnh Ba-tư. Ông sống với vợ tên Sa-rai (bà cũng sẽ được Thiên Chúa sau này đặt cho một tên mới gọi là Sa-ra). Áp-ram và vợ là Sa-rai không có con. Ông sống chung với cha là Te-ra và các anh em là Na-kho và Ha-ran, cùng với người cháu là Lót. Chúng ta đang ở trong thế kỷ thứ XIX trước CN, thời ấy, thật vậy, các sử gia ngày nay tìm lại có những dấu hiệu di dân trong thung lũng Êu-phơ-rát. Chính trong bối cảnh ấy, một ngày nọ người bố già Tê-ra lên đường với Áp-ram, Sa-rai và đứa cháu nội là Lót. Đoàn người và thú vật đi ngược lên thung lũng Êu-phơ-rát, từ đông-nam lên tây-bắc với ý định trở xuống xứ Ca-na-an. Dĩ nhiên có con đường ngắn hơn là cái tam giác ấy để nối liền vịnh Ba-tư với Địa Trung Hải, nhưng phải qua một sa mạc mênh mông. Tê-ra và Áp-ram chọn đi theo con đường hình « bánh sừng trâu », tên thật khéo chọn. Trạm dừng chân đầu tiên của họ về hướng tây-bắc mang tên là Ha-ran. Nơi đây người cha già qua đời. Chính ở ấy - cách dây 4000 năm - khoảng 1850 trước CN - lần đầu tiên Thiên Chúa nói với Áp-ram.
Những chữ đầu tiên Chúa nói: « hãy ra đi vì ngươi » (vì lợi ích của ngươi). Rất tiếc bản dịch của chúng ta chỉ chép: « Hãy rời bỏ xứ sở, … mà đi » (c1) , nhưng nếu chúng ta thích hiểu biết có thể tra bản dịch của André Chouraqui - hay những ai may mắn hơn từ bản dịch Do Thái ngữ - khi dịch từng mỗi từ ra thì không thể nào nghi ngờ được. Thế nhưng tất cả lợi ích của đức tin hay không lợi ích là ở chỗ đó, trong cụm chữ « hãy ra đi vì ngươi ». Sở dĩ Chúa gọi con người là vì hạnh phúc con người, không có chủ đích gì khác! Kế hoạch yêu thương của Chúa nằm vỏn vẹn trong chữ ấy « vì ngươi ». Lúc ấy Chúa đã mặc khải là Đấng muốn cho con người hạnh phúc (trong một thời điểm chính yếu khác trong đời Áp-ra-ham - lúc hiến tế I-sa-ắc - Chúa cũng dùng những từ ấy « hãy ra đi vì ngươi » để nhắc lại cho ông suốt đoạn đường đã đi qua để tăng nghị lực cho ông trước thử thách)
« hãy ra đi vì ngươi » « Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi » (c1). Phần sau chỉ là lời hứa: « Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc."» (c3). Áp-ram được thoát khỏi vận mệnh tự nhiên của ông, được Thiên Chúa trao ban một ơn gọi có tầm vóc hoàn vũ. Áp-ram lúc bấy giờ chỉ là một người du mục, có thể giàu thật, nhưng không ai biết đến và không có con. Và vợ ông thì đã quá tuổi có thể sinh nở. Thế nhưng nơi ông, Chúa chọn làm cha một dân tộc lớn. Đó là ý nghĩa của chữ « vì ngươi »bvừa rồi: Thiên Chúa hứa cho ông tất cả những gì làm cho hạnh phúc thời ấy: có một đàn con cháu đông đúc và được Thiên Chúa chúc phúc. Nhưng hạnh phúc ấy không chỉ cho ông mà thôi: trong Thánh Kinh không bao giờ một thiên chức, một ơn gọi để phục vụ quyền lợi ích kỷ của người được ban cho mà thôi. Tôi thiết tưởng đó cũng là một tiêu chuẩn của một ơn gọi đích thực: mọi ơn gọi luôn luôn là một sứ vụ phục vụ kẻ khác. Trong bài này có câu: « Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi » (c3a). Kế hoạch hạnh phúc ban qua Áp-ram, nhưng vượt qua ông, tràn ra khỏi ông. Nó liên hệ đến cả nhân loại: « Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc » (c3b). Suốt lịch sử Ít-ra-en Thánh Kinh luôn trung tín với sự mặc khải đầu tiên ấy: Áp-ra-ham và dòng dõi con cháu là dân Chúa tuyển chọn, trong mầu nhiệm bí hiểm của thánh ý Ngài, nhưng vì lợi ích cho toàn thể nhân loại, và cứ như thế từ ngày đầu tiên, từ lúc loan báo cho Áp-ram.
Giờ khởi đầu của cuộc hành trình vĩ đại đã điểm. Thể văn đơn sơ gần như trần trụi là điểm đáng chú ý của bài này. Bài chỉ nói: « Ông Áp-ram ra đi, như ĐỨC CHÚA đã phán với ông » (4). Cuộc khởi hành chỉ vì một lời của Thiên Chúa là minh chứng tuyệt vời cho lòng tin. Bốn nghìn năm sau chúng ta có thể nói đức tin của mỗi chúng ta kín múc từ đức tin của tổ phụ Áp-ra-ham, đó cũng là đức tin Thánh Phao-lô phát biểu trong thư gửi tín hữu Ga-la-ta: « những ai dựa vào đức tin, những người ấy là con cái ông Áp-ra-ham; Như vậy, những kẻ dựa vào đức tin thì được chúc phúc làm một với ông Áp-ra-ham, người có đức tin » (Gl 3, 7.9). Và khi tác giả sách Do-thái nói lên đức tin là như thế nào, sự ra đi của ông Áp-ra-ham được nêu lên làm mẫu gương, sự ra đi này giống như nhảy vào một nơi chưa hề có ai biết, chỉ được lý giải bằng lòng cậy trông vào Thiên Chúa: « 8 Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu.(c8); Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách (c,9); Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. 12 Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được.(c11-12) »
***
Tác giả: bà Marie-Noelle Thabut
Nguồn: http://www.eglise.catholique.fr/
Dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương