CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Ga 8, 12b
Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".
-----------------
"Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rõ".
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an
1 Đi ngang qua, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh.
2 Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? "
3 Đức Giê-su trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
4 Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được.
5 Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian."
6 Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù,
7 rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa" (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.
8 Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao? "
9 Có người nói: "Chính hắn đó! " Kẻ khác lại rằng: "Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi! " Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây! "
10 Người ta liền hỏi anh: "Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế? "
11 Anh ta trả lời: "Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: "Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy."
12 Họ lại hỏi anh: "Ông ấy ở đâu? " Anh ta đáp: "Tôi không biết."
13 Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu.
14 Nhưng ngày Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát.
15 Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: "Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy."
16 Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: "Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát"; kẻ thì bảo: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy? " Thế là họ đâm ra chia rẽ.
17 Họ lại hỏi người mù: "Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh? " Anh đáp: "Người là một vị ngôn sứ! "
18 Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến.
19 Họ hỏi: "Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được? "
20 Cha mẹ anh đáp: "Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh.
21 Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được."
22 Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô.
23 Vì thế, cha mẹ anh mới nói: "Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó."
24 Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi."
25 Anh ta đáp: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được! "
26 Họ mới nói với anh: "Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào? "
27 Anh trả lời: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng? "
28 Họ liền mắng nhiếc anh: "Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê.
29 Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến."
30 Anh đáp: "Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi!
31 Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.
32 Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.
33 Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì."
34 Họ đối lại: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư? " Rồi họ trục xuất anh.
35 Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không? "
36 Anh đáp: "Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin? "
37 Đức Giê-su trả lời: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây."
38 Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin." Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.
39 Đức Giê-su nói: "Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù! "
40 Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng: "Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao? "
41 Đức Giê-su bảo họ: "Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: "Chúng tôi thấy", nên tội các ông vẫn còn! "
Hẳn các bạn đã nhận xét: Thánh Gio-an chịu khó giải thích cho chúng ta nghĩa của chữ Si-lô-ác có nghĩa là: « người được sai phái ». Thế nhưng trong các trường hợp khác ngài không giải thích nghĩa của chữ ấy. Có nghĩa là thánh nhân lần này đặt một tầm quan trọng đặc biệt: thật vậy, suốt câu truyện người mù bẩm sinh qui vào Chúa Giê-su Ki-tô, con Người của Ngài, sứ vụ của Ngài. Cũng nên đặt vào vị trí các người đương thời với Chúa Giê-su. Tất cả vấn đề của họ là Ngài phải thật là Đấng « được Thiên Chúa sai đi » (2Cr 2, 17) hay không, Đấng mà mọi người trông đợi từ bao thế kỷ, hay là một kẻ bịp bợm. Đó là một vấn đề lớn đeo đuổi suốt đời Chúa Giê-su: Ngài có phải là Đấng Mê-si-a hay không ?
Câu truyện người mù bẩm sinh xảy ra tại Giê-ru-sa-lem trong thời gian lễ Do Thái giáo, Lễ Lều, thật đúng là ngày lễ đượm tâm tình sốt sắng nóng lòng chờ đợi Đấng Mê-si-a. Thánh Gio-an kể rằng Chúa Giê-su, như mọi người Do Thái thánh thiện lên Giê-ru-sa-lem trong dịp này. Mặc cho mọi sự bắt đầu không hay đối với Ngài. Cuộc xử án Ngài đã trong dự kiến: từ các cơ quan chính quyền đến người thường dân, tất cả xôn xao đặt câu hỏi về Ngài. Chúa có những kẻ thù ra mặt, có nhiều lần họ muốn bắt Ngài, kể cà ném đá Ngài. Nhưng Ngài vẫn đến Giê-ru-sa-lem và đây, Chúa đang trong Đền thờ, và đứng lên phát biểu.
Ngài cố gắng giải thích cho những đối thủ của Ngài hiểu tại sao Ngài hành động và cho ai, nhưng những lời giải thích càng làm cho trường hợp của Ngài trầm trọng thêm nữa! Vài ngày trước, Chúa cũng đã chữa lành một người khuyết tật, tại thành Giê-ru-sa-lem này, một ngày Sa-bát, ông Mô-sê đã truyền lệnh phải nghỉ hoàn toàn để dành ngày này vào việc nghiên cứu Thánh Kinh và cầu nguyện. Thế thì Ngài cho Mình là ai ? Tệ hơn nữa, cũng trong dịp chữa lành ngày Sa-bát, Ngài dám nói với các người chống đối: hãy ngưng phán xét chỉ dựa vào bề ngoài, hãy học xét xử theo công chính! trong lúc mọi người Do Thái đều biết chỉ có mình Thiên Chúa mới có thể phán xét và chỉ có Ngài mới công chính. Bài Đọc 1 ngày chúa nhật thứ tư Mùa Chay này nhắc lại cho chúng ta: « Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn ĐỨC CHÚA thì thấy tận đáy lòng » (1Sm 16, 7). Nói những câu như thế là tự cho mình ít nữa là người phát ngôn của Chúa hay ngay cả Thiên Chúa chính là Ngài… Cuộc tranh luận cứ như thế càng thêm trầm trọng, người ta còn muốn cả ném đá Ngài. Lần này Chúa còn thoát được, nhưng ngày của Chúa đã đìểm. Ngài bước ra khỏi đền, và lần này nữa, lại là ngày Sa-bát, và trên đường Ngài gặp người mù.
Cuộc gặp giữa Chúa Giê-su và người mù diễn ra trong ba giai đoạn. Ban đầu Chúa Giê-su nắn bùn đặt vào mắt người mù; Ngài tìm lại cử chỉ của người thợ làm đồ gốm. Dĩ nhiên điều này nhắc đến Người thợ làm đồ gốm trong tường thuật Tạo Dựng. Thiên Chúa đã nắn ra con người từ bụi đất. Giai đoạn thứ hai, người mù đi rửa ở hồ Si-lô-ắc (có nghĩa là “được gởi đi”) và chính lúc ấy, tác động chữa lành của Chúa Ki-tô mới hiệu nghiệm. Đương nhiên, chúng ta nghĩ đến phép Rửa Tội của chúng ta. Sau cùng, giai đoạn thứ ba, trong cuốc gặp gỡ lần thứ hai, lần này Chúa Giê-su mở mắt người mù cho thấy một ánh sáng khác, đó là đức tin. Trong tường thuật công trình Tạo Dựng cũng như thế, Thiên Chúa làm hai cử chỉ: Ngài nắn con người bằng bụi đất, cũng như Ngài nhào nặn các súc vật, nhưng chỉ nơi con người Ngài mới thổi vào hơi thở sự sống. Đó là kỳ công của Thiên Chúa: trước tiên là Tạo Dựng, nhưng nhất là đề nghị chia sẻ hơi thở với Ngài, chính sự sống của Ngài. Và điều ấy chỉ hoàn tất trong Chúa Giê-su Ki-tô.
Bây giờ chúng ta trở về trường hợp người mù bẩm sinh. Chúa Giê-su làm cho trường hợp của Ngài càng trầm trọng hơn và các cuộc tranh luận tiếp diễn. Thật vậy, chữa lành một người mù, đó là một hành động của Thiên Chúa. Trong sách Xuất Hành có một câu mà mọi người Do Thái thuộc nằm lòng. Ông Mô- sê lo lắng sau khi được Chúa trao cho sứ vụ, ông nói: « con không phải là kẻ có tài ăn nói, vì con cứng miệng cứng lưỡi » (Xh 4, 10). Chúa trả lời: « Ai cho con người có mồm có miệng? Ai làm cho nó phải câm phải điếc, cho mắt nó sáng hay phải mù loà? Há chẳng phải là Ta, ĐỨC CHÚA, đó sao? » (Xh 4, 11). Chúa Giê-su vừa minh chứng Ngài chính là ánh sáng thế gian, ánh sánh chiếu cho mọi người từ việc xuống thế của Ngài, như Thánh Gio-an nói trong phần mở đầu Tin Mừng ngài viết. Sau khi người mù được chữa lành, những người được rửa tội là những nhân chứng giữa thế gian, Giáo Hội sơ khai gọi họ là những người được « thiên khải ».
***
Tác giả: bà Marie-Noelle Thabut
Nguồn: http://www.eglise.catholique.fr/
Dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương