"Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi"
1 Thánh vịnh. Của vua Đa-vít
CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
2 Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
3 và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
4 Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
5 Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
6 Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Chúng ta vừa đọc toàn bài thánh vịnh: đây là một trong những bài ngắn nhất sách Thánh vịnh. Nhưng nó rất xúc tích đến độ được các tín hữu đầu tiên làm bài ca Thánh vịnh ưu tiên cho đêm Phục Sinh. Thật vậy, các tân tòng đi từ bồn nước Rửa Tội lên hát bài Thánh vịnh 22 này tiến đến nơi nhận bí tích Thêm sức và rước Mình Thánh lần đầu. Vì thế bài này được gọi là « thánh vịnh khai tâm Ki-tô ».
Sở dĩ các Ki-tô hữu nhận ra nơi đây mầu nhiệm đời sống được rửa tội, bởi vì, đối với It-ra-en bài thánh vịnh này đã biểu đạt một cách ưu tiên mầu nhiệm đời sống trong Giao Ứơc, cuộc đời trong đời sống mật thiết với Thiên Chúa. Mầu nhiệm ấy là sự chọn lựa chính dân tộc này của Thiên Chúa, không có một nguyên do rõ ràng nào ngoài quyền tối thượng tự quyết của Ngài. Mỗi thế hệ lần lược thán phục sự chọn lựa ấy và Giao ớc được Chúa đề nghị: « Anh (em) cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh (em), từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời này đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng?...Chính anh (em) đã được cho thấy những điều đó » (Đnl 4, 32…35). Chính Chúa đã tự ý quyết định chọn dân này, đi vào mật thiết với Thiên Chúa, dĩ nhiên không phải để hưởng một cách ích kỷ nhưng để mở cửa cho mọi dân tộc khác được như thế.
Để miêu tả hạnh phúc của người tín hữu bài Thánh vịnh 22 của chúng ta dựa vào hai trải nghiệm, một là của người Lê-vi, một của người hành hương. Dân It-ra-en như người Lê-vi hạnh phúc được ngụ trong thân mật với Thiên Chúa của họ: « tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên. » (c6). Hẳn các bạn biết quy chế các người Lê-vi. Theo Sách Sáng Thế, Lê-vi là một trong các con của Gia-cóp, từ tên những người này mà được đặt tên cho mười hai chi tộc It-ra-en. Nhưng chi tộc Lê-vi, ngay từ đầu có một chỗ đứng đặc biệt: lúc chia các phần đất, chi tộc này không có phần như những chi tộc khác, vì họ được dành cho phần phục vụ phụng vụ. Họ nói phần của họ chính là Thiên Chúa; hình ảnh này chúng ta được biết trong một bài thánh vịnh khác: «Lạy CHÚA, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ. » (Tv 15 (16), 5). Những người Lê-vi sống rải rác trong những thành phố các chi tộc khác, sống nhờ những phúc thu cho đền thờ. Tại Giê-ru-sa-lem họ phục vụ trong Đền thờ.
It-ra-en được miêu tả dưới nét người hành hương đến đền thờ để dâng lễ vật tạ ơn. Trong cuộc hành hương đến Đền thờ họ sánh mình như một con chiên: người chăn chiên là Thiên Chúa. Chúng ta tìm lại nơi đây đề tài quen thuộc trong Thánh Kinh. Cách nói trong các cung đình ở Trung Đông, các vua được gọi là cchủ chăn của dân chúng. Tiên tri Ê-dê-ki-en lấy lại hình ảnh ấy: từ thời các vua Sa-un và Đa-vít, dân chúng có rất nhiều chủ chăn, nhưng không có mấy ông là những chủ chăn tốt dưới mắt Thiên Chúa. Chỉ có Ngài mới xứng danh là người chăn chiên tốt lành. Chỉ có Ngài mới xứng đáng là người chăn chiên quan tâm đến những nhu cầu thật sự của đoàn chiên của mình: « CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. 2 Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành 3 và bổ sức cho tôi. » (c1-3a)
Người hành hương trên đường có thể gặp hiểm nguy: bài Thánh vịnh có vang lên điều này. Trên đường có thể gặp kẻ thù (« Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù »(c5); có thể gặp nguy đến tính mạng « dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng ») (c4). Dù gì đi nữa người hành hương không sợ chi, Chúa ở cùng họ « con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. » (c4). Rồi khi đến Đền thờ, người hành hương thực hiện ý định đến dâng lễ tạ ơn, trước khi dùng bữa tiệc theo phụng vụ buổi lễ tạ ơn. Bầu khí bữa lễ tiệc thường là lúc liên hoan giữa bạn bè vui vẻ « ly rượu con đầy tràn chan chứa » (c5) trong mùi « đượm dầu thơm » (c5)
Chúng ta hiểu vì sao những tín hữu sơ khai thích tìm trong bài thánh vịnh này cách thể hiện trải nghiệm niềm tin của họ: chính Chúa Giê-su là Người Chăn Chiên thật sự (Ga 10). Qua Bí Tích Rửa Tội Ngài kéo ra khỏi vực thẳm, khỏi sự chết, cho họ sống lại, mang họ đến nước an lành; bàn tiệc được đặt sẵn sàng, chén rượu đầy tràn nói lên buổi Tiệc Thánh Thể; mùi thơm trên đầu nói lên Bí Tích Thêm Sức. Một lần nữa người Ki-tô hữu ngạc nhiên thán phục khám phá đến mức Chúa Giê-su chẳng những không bãi bỏ gì, không xoá bỏ trải nghiệm đức tin dân Ngài, nhưng trái lại, Ngài hoàn tất mọi sự, và mang lại một chiều kích mới.
***
Tác giả: bà Marie-Noelle Thabut
Nguồn: http://www.eglise.catholique.fr/
Dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương