"Ta sẽ dẫn con cái Ta lên núi thánh"
Trích sách Tiên tri I-sa-i-a.
1 ĐỨC CHÚA phán như sau: Hãy tuân giữ điều chính trực,
thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới,
và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ.
6 Người ngoại bang nào gắn bó cùng ĐỨC CHÚA
để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh,
cùng trở nên tôi tớ của Người,
hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm,
cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta,
7 đều được Ta dẫn lên núi thánh
và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta.
Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận
những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng,
vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.
Bài này khởi đầu quyển sách được gọi là Sách Thứ Ba I-sa-i-a, sách được viết trong thập niên đầu sau khi từ Ba-by-lon về, có lẽ là cuối thế kỷ thứ VI hoặc đầu thế kỷ thứ V. Chúng ta thường thấy cuộc hội nhập về xứ không hề đơn giản. Sau năm mươi năm, không thể tìm lại những gì như lúc bỏ lại trước khi ra đi, và làm sao chung sống với những người đã chiếm chỗ lúc ta vắng mặt? Ngược lại, những người địa phương lo ngại với những người đi đày trở về; họ nói với nhau: «Hẳn ĐỨC CHÚA đã tách tôi ra khỏi dân Người.» (c3b), những người bị hoạn cũng thế, họ đặt câu hỏi: «Chính tôi đây là một cây khô…» (c3c) (ngụ ý nói, họ sẽ loại chúng tôi ra). Tất cả những lo sợ ấy có lý của nó, vì lâu nay luận thuyết Thiên Chúa lựa chọn dân tộc It-ra-en, đánh dấu rõ ràng sự khác biệt dân được chọn và các dân tộc khác. Những người quá cẩn thận còn có khuynh hướng theo tinh hoa chủ nghĩa hoặc khai trừ, với chủ đích giữ trọn tín trung.
Rất có thể, cả hai bên đều đến gặp người ngôn sứ và ngài đưa ra một quy tắc thực tiển từ Thiên Chúa. Điều này không mấy đúng sở thích mọi người, vì thế ngài chu đáo rào trước bài giảng với công thức ghi chú: «ĐỨC CHÚA phán như sau» và ngài lặp lại ba lần khi trình bày quyết định, mà chúng ta trích một đoạn trong bài đọc hôm nay. Thật vậy, quyết định của ngài là tán dương sự cởi mở: «Người ngoại bang gắn bó cùng ĐỨC CHÚA chớ nói rằng: "Hẳn ĐỨC CHÚA đã tách tôi ra khỏi dân Người." Người bị hoạn chớ nói: "Chính tôi đây là một cây khô." Quả vậy, ĐỨC CHÚA phán như sau: Nếu những người bị hoạn mà vẫn giữ các ngày sa-bát Ta truyền, và lựa chọn điều Ta ưa thích, cùng tuân thủ giao ước của Ta, thì trong nhà và trong tường luỹ của Ta, Ta sẽ cho chúng được lưu danh và có đài kỷ niệm; như thế còn quý hơn con trai con gái.» (c3-5)
Nhân đây tôi cũng xin lưu ý, ngôn sứ cũng rõ ràng đưa ra những điều kiện cho sự cởi mở: Giữ ngày Sa-bát, thực hành Giao Ước, làm những gì vừa lòng Thiên Chúa. Nhưng việc cởi mở là việc đã rồi, đánh dấu một giai đoạn rất quan trọng trong sự mặc khải tính hoàn vũ trong dự án Thiên Chúa.
Cùng một sự cởi mở, cùng những điều kiện cho những người ngoại: «Người ngoại bang nào gắn bó cùng ĐỨC CHÚA để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.» (c6-7)
Nhấn mạnh đến việc giữ ngày Sa-bát «mà không vi phạm», sự kiện này biểu lộ nhiều điều: Trong thời gian bị lưu đày, tuân giữ ngày Sa-bát là một yếu tố quan trọng để gìn giữ đời sống cộng đồng và tính đồng nhất dân tộc Do Thái. Không nên có sự mở rộng quá độ, đánh mất tính đồng nhất ấy. Tất cả các tôn giáo đều phải chạm trán với khó khăn trong việc kết hợp hài hòa sự mở rộng ra và tuân giữ truyền thống, khoan dung và trung tín.
Vị ngôn sứ không ngừng ở đấy. Ngoài quy tắc thực tiển, ngài triển khai một lời tiên tri về kế họach Thiên Chúa, hay nói đúng hơn, ngài đặt cái quy tắc thực tiển cuộc sống trong viễn ảnh của kế họach Thiên Chúa: «ĐỨC CHÚA phán như sau: Hãy tuân giữ điều chính trực,
thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ.» (c1) Việc loan báo ơn cứu độ gần tới được tràn đầy những chương trước (Sách I-sa-i-a hai), kể cả điều kiện để lãnh nhận ơn cứu độ Thiên Chúa: «tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh» Lúc ấy các dân ngoại đã được nêu lên, I-sa-i-a gọi là «chư dân» (60, 3), nhưng hình như lúc này họ chưa là chứng nhân cho dân được Chúa chọn: «Bấy giờ vinh quang ĐỨC CHÚA sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng ĐỨC CHÚA đã tuyên phán.» (Is40, 5); và «Đức công chính của Ta đã gần kề, ơn cứu độ của Ta sắp xuất hiện, cánh tay Ta sẽ lãnh đạo muôn dân muôn nước, muôn đảo đặt hy vọng nơi Ta và mong chờ Ta ra tay hành động. Hãy ngước mắt lên trời, rồi cúi nhìn xuống đất: Này, trời sẽ tan ra như làn khói, đất sẽ rách tươm như manh áo cũ, và dân cư trên đó sẽ chết như ruồi; nhưng ơn cứu độ của Ta sẽ trường tồn vạn kỷ và đức công chính của Ta sẽ không suy suyển bao giờ. Hãy nghe Ta, hỡi những ai biết sống đời công chính, hỡi dân hằng tâm niệm luật pháp của Ta, đừng sợ chi miệng đời nhạo báng, chớ vì lời sỉ nhục của ai mà khiếp đảm. Vì chúng sẽ như chiếc áo bị mối ăn, như tấm vải len bị rận cắn; còn đức công chính của Ta sẽ trường tồn mãi mãi và ơn cứu độ của Ta sẽ vạn đại thiên thu.» (51,5-8)
Với bài đọc hôm nay, hình như có một bước tiến được vượt qua: Hễ ai tuân giữ điều chính trực, và thực hành điều công minh (c1) là được vào Nhà của Thiên Chúa: «Phúc thay người làm như thế, phúc thay phàm nhân nắm giữ điều này, người giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, chẳng hề đưa tay làm điều gian ác.» (c2) Và Ngôn sứ kết luận: «nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.» (c7)
***
Tác giả: bà Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: http://www.eglise.catholique.fr/
Dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương