"Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ."
(Xem Chúa nhật XXVIII thường niên năm A cùng bài)
1 Thánh vịnh. Của vua Đa-vít
CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
2 Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
3 và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
4 Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
5 Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
6 Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Bài Thánh vịnh 22 này (chúng ta rất quen thuộc vì đã từng hát «Chúa là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì») bài này nghe như một bài thơ điền viên, có thể làm cho chúng ta lầm! Thật ra, chỉ trong vài câu - chúng ta vừa nghe toàn bài - tất cả các phương diện cuộc sống đều được đề cập. Trái hẳn với vẻ bên ngoài, đây không phải miêu tả một cuộc du ngoạn đồng ngoại. Vấn đề là sự sống chết, khiếp sợ trước kẻ thù và lòng tin vào Thiên Chúa mãnh liệt hơn mọi mối đe dọa. Nghe bài Thánh vịnh này như một tiếng vang rất gợi ý cho Bài đọc 1 Chúa nhật thứ XXVIII hôm nay, trích từ sách Tiên tri I-sa-i-a. Ngài chỉ nói đời sống trong Giao Ước với Thiên Chúa, và chúng ta thấy đối với Tiên tri I-sa-i-a, chỉ có đời sống ấy mới đáng gọi là sống; tất cả các tình trạng cắt đứt với Thiên Chúa gọi là chết, một khi ta là tín hữu.
Một trong những mẫu gương đời sống kết hiệp với Thiên Chúa trong Cựu Ước, là các Người Lê-vi. Chúng ta biết thể chế người Lê-vi. Theo sách Sáng Thế, Lê-vi là một trong mười hai người con ông Gia-cóp, mười hai chi tộc Ít-ra-en mang tên mười hai người con ấy. Nhưng từ ban đầu, chi tộc Lê-vi có một chỗ đứng riêng biệt, để hoàn toàn tận hiến cho việc phụng tự. Mọi người cho rằng chính Chúa là gia nghiệp của họ. (hình ảnh này chúng ta rất quen thuộc, vì được lặp lại trong một bài Thánh vịnh khác: «Lạy CHÚA, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ. Phần tuyệt hảo may mắn đã về con, vâng, gia nghiệp ấy làm con thoả mãn.» (Tv15, 16). Các người Lê-vi sinh sống rải rác trong các chi tộc khác, nhờ các bổng lộc được dâng hiến. Tại Giê-ru-sa-lem, họ được giao nhiệm vụ phụng tự trong Đền Thánh và gìn giữ Đền.
Mỗi khi dân chúng Ít-ra-en lên Đền Thánh, họ có cảm tưởng nhận được ơn Thánh nhờ người Lê-vi. Còn người Lê-vi, họ rất sung sướng được ở gần gũi Thiên Chúa, họ tin và có thể nói: «Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.» (c6) Như người Lê-vi, dân tộc Ít-ra-en nhận thấy mình có được một chỗ đứng đặc biệt, đó là mầu nhiệm Thiên Chúa chọn riêng dân tộc này, không ngoài lý do nào khác, là sự tự do tối cao của Ngài. Mỗi thế hệ ngạc nhiên thán phục về sự chọn lựa này, và về Giao Ước Ngài đề nghị: «Anh (em) cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh (em), từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời này đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng? Có dân nào đã được» (Đn l4, 32) Thiên Chúa hoàn toàn tự quyết cho dân tộc này vào vòng mật thiết với Thiên Chúa, dĩ nhiên là không phải để họ được ích kỷ tận hưởng, nhưng để mở cửa cho các dân tộc khác. Rút cục, như Tiên tri I-sa-i-a nhắc lại, chính toàn nhân loại sẽ được vào vòng mật thiết với Thiên Chúa: Buổi tiệc được Thiên Chúa dọn trên núi mời gọi mọi dân tộc. (xem Bài đọc 1)
Buổi tiệc do Tiên tri I-sa-i-a miêu tả, có thể nói họ đã nếm vị ấy trước trong các buổi tiệc hiệp lễ sau lễ tạ ơn trong Đền Giê-ru-sa-lem. Các buổi ăn ấy là những buổi dạ lễ giữa bạn bè với «ly rượu con đầy tràn chan chứa.»: «Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.» (c5) Thế nhưng, theo lịch sử, mỗi lần hát bài Thánh vịnh này trong Đền Giê-ru-sa-lem, mới chỉ là vị hương trước của hạnh phúc hứa cho thời cánh chung. Còn phải gặp bao nhiêu thử thách nữa. Trong những thử thách ấy, không có chỗ nào nương náu ngoài lòng cậy trông.
Trong khi ấy, Ít-ra-en được ví như con chiên: Người chăn chiên là Thiên Chúa. Đây là một đề tài quen thuộc trong Thánh Kinh: Trong cách nói trong cung điện vùng Trung Đông, các vua được xem là những mục tử cho dân chúng. Tiên tri Ê-dê-ki-en cũng lấy lại những hình ảnh ấy. Từ thời vua Sa-un và Đa-vít, dân chúng có rất nhiều mục tử, nhưng không mấy ai là mục tử nhân lành trước mặt Thiên Chúa. Chắc chắn, ngoài Ngài ra không ai có thể nói là mục tử quan tâm đến những nhu cầu thật sự của đàn chiên mình. «CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành» (c1,2). Nơi ấy chẳng thiếu thốn gì.
Ngay khi phải: «qua thung lũng âm u của sự chết», dân Ít-ra-en biết rằng, như người mục tử sẽ «đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.» (c2,3) Vì còn có nhiều hiểm nguy trên suốt hành trình lịch sử, đó là biết bao kẻ thù …nhưng dù sao đi nữa, họ chẳng sợ chi. Thiên Chúa ở với họ: «con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,» (c4,5). Sự an tâm, thanh thản của người tín hữu dựa vào tất cả trải nghiệm của sự quan tâm của Thiên Chúa cho dân Ngài từ bao thế kỷ. Những ngày nản lòng, họ lặp lại lời Tiên tri I-sa-i-a: «Ngày ấy, (ngụ ý nói ngày cánh chung) người ta sẽ nói: "Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là ĐỨC CHÚA chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ.” (Is25, 9).
***
Tác giả: bà Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: http://www.eglise.catholique.fr/
Dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương