"Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và Chúa rất giàu ơn cứu độ."
1 Ca khúc lên Đền.
Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy CHÚA,
2 muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con.
Dám xin Ngài lắng tai để ý
nghe lời con tha thiết nguyện cầu.
3 Ôi lạy CHÚA, nếu như Ngài chấp tội,
nào có ai đứng vững được chăng?
4 Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ
để chúng con biết kính sợ Ngài.
6 Hồn tôi trông chờ Chúa,
hơn lính canh mong đợi hừng đông.
Hơn lính canh mong đợi hừng đông,
7 trông cậy CHÚA đi, Ít-ra-en hỡi,
bởi CHÚA luôn từ ái một niềm,
ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.
8 Chính Người sẽ cứu chuộc Ít-ra-en
cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn.
Trong sách Thánh Vịnh có một nhóm gồm mười lăm thánh vịnh mang tên đặc biệt, mỗi bài bắt đầu bằng cụm chữ: «Ca khúc lên đền». Theo tiếng Do Thái chữ «Lên» được dùng để chỉ «Đi lên Giê-ru-sa-lem hành hương». Hơn nữa, trong Thánh Kinh chữ «lên Giê-ru-sa-lem» được dùng nhiều lần trong nghĩa ấy: cụm chữ này gợi lên cuộc hành hương trong dịp mừng ba lễ đặc biệt hằng năm, trong đó lễ quan trọng nhất là Lễ Lều. Chúng ta cũng ghi nhận Thánh Kinh bằng tiếng Hy Lạp gọi những bài này là «bài ca những bậc», tức là những «bậc thang». Thật vậy, có một cầu thang nối liền từ hành lang các phụ nữ đến tiền đình ở Giê-ru-sa-lem; có người luận ra mỗi bài thánh vịnh được hát ở mỗi bậc thang. Nhưng khả thi hơn, các bài Thánh vịnh ấy chỉ toàn bộ cuộc hành hương. Trước khi đến Giê-ru-sa-lem, các thánh vịnh ấy đã gợi lên diễn biến buổi lễ.
Thế thì Thánh vịnh 129 là một trong những ca khúc lên đền. Hình như bài này gợi lên một hy lễ sám hối được dâng lên trong Lễ Lều, trong một phụng vụ sám hối. Vì lẽ ấy, số các từ về lỗi lầm, và tha thứ tương đối quan trọng trong bài Thánh vịnh này. Người tội lỗi nói lên ở đây và khẩn nài với lòng xác tín được tha thứ, chính dân chúng nhìn nhận lòng từ bi nhân hậu vô bờ của Thiên Chúa (tiếng Do Thái gọi là Hessed của Ngài) và bản chất bất lực của con người đáp lại Giao Ước. Họ cảm nhận sự bất tuân liên tục ấy quả thật như cái chết thiêng liêng: «Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy CHÚA». Nhưng tiếng kêu van ấy dâng lên Đấng chính là sự tha thứ…Đó là ý nghĩa của câu «Chúa vẫn rộng lòng tha thứ» (c4). Chính trong tha thứ, Chúa mặc khải uy lực của Ngài. Chúa là Tình yêu hay Chúa là Quà nhưng không đều cũng như nhau. Thế nhưng tha thứ không khác gì vượt xa hơn quà tặng (Người dịch: tác giả giải thích một cách «chơi chữ» theo tiếng Pháp). Tha thứ tức là tiếp tục đề nghị Giao Ước, một tương lai vẫn khả thi, vượt qua các bất trung. «Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài.» Câu này là một công thức rất xúc tích để chỉ thái độ nào nên có trước mặt Thiên Chúa, Ngài chỉ là ân sủng và tha thứ. Chúng ta nhận ra nơi đây một định nghĩa của sự «kính sợ Chúa»: không phải sợ hình phạt. Tất cả tính sư phạm của suốt lịch sử Thánh Kinh là cố gắng giải thoát chúng ta mọi sợ hãi, vì sợ hãi không phải là thái độ con người tự do. Trong lúc ấy, Chúa muốn giải thoát chúng ta hoàn toàn. Kính sợ Thiên Chúa theo nghĩa Thánh Kinh là tôn thờ với lòng hân hoan, ngỡ ngàng trước uy lực toàn năng Thiên Chúa, uy lực xuất phát từ tình yêu.
Thế nhưng, không vì thế, sự xác tín vào lòng từ bi nhân hậu của Chúa nảy sinh nơi người tín hữu ý định sa ngã hoặc vô tư với tội lỗi: «kính sợ» Thiên Chúa, tức là tôn vinh phụng thờ và tin tưởng nơi Ngài đến độ làm tất cả những gì có thể để vâng theo lề luật của Ngài với lòng xác tín rằng luật ấy xuất phát từ tình yêu phụ tử. Sự xác tín về tha thứ và ân sủng luôn được lãnh nhận, vượt khỏi mọi lỗi lầm, gợi lên Ít-ra-en một lòng tin tưởng lạ lùng. Ít-ra-en sám hối chờ được thứ tha còn «hơn lính canh mong đợi hừng đông.»
«Chính Người sẽ cứu chuộc Ít-ra-en cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn» (c8). Chúng ta thường gặp trong Thánh Kinh những câu tương tự. Đó là cách loan báo sự giải thoát vĩnh viễn Ít-ra-en, giải thoát mọi lỗi lầm trong mọi thời. Ít-ra-en còn chờ đợi nhiều hơn nữa: chính xác vì dân của Giao ước đã trải nghiệm sự yếu đuối của mình, và tội lỗi của mình lúc nào cũng tái sinh, nhưng cũng chờ đợi lòng trung tín Thiên Chúa, họ chờ chính Thiên Chúa thực hiện vĩnh viễn lời hứa của Ngài. Vượt khỏi sự tha thứ nhất thời, đó là buổi rạng đông vĩnh hằng mà dân tộc này từ muôn thế kỷ, và như tổ phụ Áp-ra-ham hằng mong đợi: «Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin» (Rm 4, 18), buổi hừng đông ngày của Chúa. Tất cả các bài Thánh vịnh đều trải qua sự chờ đợi Đấng Mê-si-a.
Không thể nào có ý tưởng thoáng qua đầu chúng ta rằng, ngày lại quên không đến sau khi đêm tàn... Người tín hữu còn xác tín hơn thế, chắc chắn rằng thế giới sẽ đến ngày hoàn tất: một sự hoàn tất mang tên Giê-su Ki-tô: «Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông.» (c6)
***
Tác giả: bà Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: http://www.eglise.catholique.fr/
Dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương