BÀI ĐỌC 2 (2Tm 1, 8b-10)
"Thiên Chúa kêu gọi và chiếu soi chúng ta."
Trích thư thứ hai của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi chi Ti-mô-thê.
8 …dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.
9 Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su,
10 nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Ki-tô Giê-su đã xuất hiện. Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.
Thánh Phao-lô đang bị cầm giữ trong nhà giam Rô-ma, thánh nhân biết không bao lâu sẽ bị hành quyết: ngài trao lại những lời khuyên bảo cuối cùng cho người môn đệ yêu dấu Ti-mô-Thê: «… dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng». Lao khổ ngài nói ở đây là sự bách hại, không thể nào tránh được cho một môn đệ đích thực của Chúa Ki-tô. Nếu sự lao khổ không thể tránh được cho những ai liều lĩnh loan báo Tin Mừng; thế thì ta tự hỏi tại sao trong vài quốc gia các Ki-tô hữu lại không bị bách hại? Phải chăng các xứ ấy đã được hoàn toàn phúc âm hoá? Thật khó tin… Hay là việc loan báo Tin Mừng của chúng ta đã bị nhạt vị đi rồi?
Cụm chữ «loan báo Tin Mừng» được lặp lại cuối bài, có vẻ như bài này được trình bày theo thể văn có thể gọi là thể kẹp. Đoạn trung tâm được đóng khung giữa hai từ ngữ giống nhau, cho thấy chi tiết giải thích Tin Mừng ấy là gì. Tất cả được tóm gọn trong vài chữ: «9 Người đã cứu độ … trong Đức Ki-tô Giê-su» (c.9). «Chúa đã cứu độ» đó là quá khứ, là điều đã được rồi, nhưng đồng thời muốn cho con người đi vào trong ơn cứu độ ấy, thì Tin Mừng phải được loan báo cho họ. Vì thế, thật vậy, chúng ta được trao cho một ơn gọi thánh: «Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, … Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su». Ơn gọi thánh vì được trao ban từ Chúa chí thánh, ơn gọi thánh vì không khác gì loan báo kế hoạch của Chúa, ơn gọi thánh vì kế hoạch Thiên Chúa cần chúng ta hợp tác: mỗi người phải nhận phần tham dự của mình, như Thánh Phao-lô nói. Nhưng tôi nghĩ rằng «ơn gọi thánh» còn có ý nghĩa khác: kế hoạch của Chúa cho chúng ta, cho nhân loại quá vĩ đại nên đáng được gọi như thế. Vì nếu nghĩ như Thánh Phao-lô nói về «Kế hoạch yêu thương» của Chúa, thì ơn gọi của cả nhân loại là làm cho chỉ còn nên một với Chúa Giê-su Ki-tô; ta là Chi Thể còn Chúa Ki-tô là Đầu, và đi vào hiệp nhất với Chúa Ba Ngôi thánh. Ơn gọi đặc biệt của các Tông Đồ cũng nằm trong ơn gọi hoàn vũ cho nhân loại.
«Người đã cứu độ» (c.9). Trong Thánh Kinh, chữ cứu độ luôn luôn đồng nghĩa với giải thoát. Cũng phải có một sự mặc khải tiệm tiến về thực tại ấy cho dân của Giao Ước: Chúa muốn con người tự do, và Ngài không ngớt can thiệp để giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức của nô lệ. Về những hình thức nô lệ, nhân loại chịu mọi thứ nô lệ: nô lệ chính trị, như những năm nô lệ ở Ai-cập, hay khi bị đày bên Ba-by-lon chẳng hạn; và cứ mỗi lần như thế, Ít-ra-en nhận ra công trình của Chúa khi họ được giải thoát; nô lệ xã hội, thế nhưng, trong Lề Luật (Luật Tô-ra), các ngôn sứ không ngừng kêu gọi hoán cải tâm hồn để mọi người có điều kiện sống xứng đáng và tự do; nô lệ tôn giáo, còn độc hại hơn nữa (có câu bất hủ «Hỡi Tự do, có bao nhiêu người sát nhân, nhân danh ngươi!»; còn có người nói quá đáng hơn «Hỡi tôn giáo có bao nhiêu người phạm tội giết người nhân danh mi!»… Và các ngôn sứ rất kinh khủng về vấn đề này, để nghiêm cấm và tránh xa mọi hình thức thờ lạy bụt thần: Lề Luật, tất cả không có chủ đích gì khác hơn là để giải thoát chúng ta. Rốt cuộc, sự nô lệ - điều nô lệ kinh khủng nhất - đó là sự chết. Hẳn các bạn biết thánh vịnh 109. Bài này loan báo Đấng Mê-si-a như một vị vua chiến thắng mọi kẻ thù; và Thánh Phao-lô áp dụng cho Chúa Giê-su, nói rằng Ngài chiến thắng sự chết. Thánh vịnh 109 chép: «Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con» [Tv 109 (110), 1], và Thánh Phao-lô nói thêm trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô: «Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết» (1Cr 15, 26).
«Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử» (c.10). Chúng ta nhận xét nơi đây, những đối kháng của Thánh Phao-lô: - sự chết/sự sống, tối tăm/ánh sáng - Các bạn có thể nói: chúng ta vẫn tiếp tục chết kia mà; thật vậy, nhưng từ nay, sự chết đối với chúng ta như một giai đoạn phải qua, nhưng bên kia là ánh sáng, ánh sáng chiếu không suy tàn. Sự chết thể lý thuộc về cấu tạo thể chất của cơ thể, làm bằng bụi đất, như sách Sáng thế nói; nhưng sự chết không tách lìa chúng ta khỏi Chúa Giê-su Ki-tô. Và đó là món quà nhưng không Chúa ban. Các bạn cũng như tôi nghe Thánh Phao-lô nhấn mạnh: «Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su» (c.9). Ân sủng ấy trở nên hiện thực qua cuộc đời trần thế của Chúa Giê-su Ki-tô, nhưng Thánh Phao lô nhấn mạnh đến sự kiện kế hoạch ấy của Thiên Chúa đã có «từ muôn thuở». Chúa Giê-su Ki-tô biểu lộ trước mắt chúng ta bằng sự sống của Ngài, sự chết của Ngài và sự phục sinh của Ngài; thế nhưng, Chúa vẫn luôn hiện diện cạnh bên Đức Chúa Cha. Ân sủng ấy Ngài đã ban cho chúng ta từ trước muôn thuở, và bây giờ chúng ta mới thấy được. Tôi xin trở lại câu bất hủ trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô: «Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô. Cũng trong Đức Ki-tô,» (Ep 1, 9-10). Vỏn vẹn câu ngắn này, cũng đủ để làm cho chúng ta mạnh dạn: mỗi khi chúng ta được gọi phục vụ loan báo Tin Mừng, chúng ta có thể đặt hết tin tưởng vào sức mạnh toàn năng của Thiên Chúa.
***
PHÚC ÂM (Mt 17, 1-9)
"Mặt Người chiếu sáng như mặt trời".
Phúc Âm theo Thánh Mát-thêu.
1 Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.
2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.
3 Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.
4 Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a."
5 Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! "
6 Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.
7 Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: "Chỗi dậy đi, đừng sợ! "
8 Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi.
9 Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng: "Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy."
«Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình». Một lần nữa, chúng ta đứng trước mầu nhiệm sự chọn lựa của Chúa; trước đó, tại Xê-da-rê, Chúa Giê-su nói với Phê-rô: «anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi» (Mt 16, 18). Nhưng Phê-rô được tấn phong cho sứ mạng hàng đầu, theo đúng nghĩa của sứ mạng ấy, không chỉ một mình với Chúa Giê-su. Có hai anh em con ông Dê-bê-đê đi cùng là Gia-cô-bê và Gio-an. «Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao» (c1.b): trên một ngọn núi cao, ông Mô-sê được Thiên Chúa Mặc Khải về Giao Ước và nhận các bia Lề Luật. Luật để giáo huấn dần dần dân của Giao Ước sống trong tình yêu Thiên Chúa và tình yêu anh em; trên một đỉnh núi cao, ông Ê-li-a được mặc khải Thiên Chúa dịu dàng như làn gió thoảng. Mô-sê và Ê-li-a, hai cột trụ của Cựu Ước…
Trên đỉnh núi cao Chúa Hiển Linh, Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an những cột trụ của Giáo Hội, được mặc khải một Thiên Chúa từ bi nhân hậu nơi Chúa Giê-su: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!». Sự mặc khải này để củng cố đức tin cho ba ông, trước cơn bão táp của cuộc Thương Khó. Thánh Phê-rô sau này viết: «Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. 17 Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến". 18 Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người.» (2Pr 1, 16-18)
Cũng tương tự như thế, chúng ta đọc trong thư Thánh Phao-lô gửi cho Ti-mô-tê (bài đọc thứ hai Chúa nhật hôm nay): «Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su,10 nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Ki-tô Giê-su đã xuất hiện» (2Tm 1, 9b-10a). Ân sủng, tức là sự hiện diện của Thiên Chúa, trên Con Người Chúa Giê-su, Người Con yêu dấu. Câu: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!» Chỉ định Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a: Con là danh hiệu thường được ban cho vua, và Đấng Mê-si-a có những nét của hậu duệ vua Đa-vít, trên ngai vua Giê-ru-sa-lem. «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người». Điều này có ý nói Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a - Người Tôi Trung, theo nghĩa của tiên tri I-sa-i-a (Is 42, 1)... «hãy vâng nghe lời Người!»; có nghĩa là Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a - Ngôn sứ, theo nghĩa ông Mô-sê loan báo cho dân chúng trong sách Đệ-nhị-luật: «Từ giữa anh (em), trong số các anh em của anh (em), ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh (em) hãy nghe vị ấy.» (Đnl 9, 15)
«con xin dựng tại đây ba cái lều». Câu này của Phê-rô gợi lên giai đọan Hiển Linh, có lẽ, được diễn ra lúc Lễ Lều, hay ít nữa trong bầu khí của Lễ Lều. Lễ này được cử hành trọng thể để hồi tưởng lúc vượt qua sa mạc thời Xuất Hành, và Giao Ước với Thiên Chúa trong bầu khí sốt sắng; được các tiên tri sau này gọi là lễ đính hôn của dân với Thiên Chúa từ bi nhân hậu và tín trung. Suốt tám ngày lễ, người ta sống dưới lều chờ đợi và khẩn cầu Thiên Chúa biểu lộ một lần nữa, bày tỏ Đấng Mê-si-a đến. Trong suốt thời gian tám ngày, có nhiều tổ chức mừng lễ, hát lên những bài thánh vịnh loan báo Đấng Mê-si-a, khẩn cầu Chúa mau gửi Ngài đến.
Trên núi Hiển Linh, bất chợt ba Tông Đồ chứng kiến sự mặc khải ấy: không lạ gì, các ông hoảng sợ, như bất cứ ai trước sự biểu lộ của Chúa Cực Thánh. Hãy nhớ lại tiên tri I-sa-i-a, chỉ còn biết lặp lại: «Thánh! Thánh! Chí Thánh! ĐỨC CHÚA các đạo binh!» (Is 6, 3). Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi Chúa Giê-su mặc khải và trấn an các ông: từ Cựu Ước, dân của Giao Ước được mặc khải Chúa Cực Thánh, cũng là Chúa gần gũi con người và sợ hãi Ngài là không thích hợp. Thế nhưng, sự mặc khải mầu nhiệm Đấng Mê-si-a, dưới tất cả phương diện, mọi người chưa có thể lãnh nhận được. Chúa Giê-su ra lệnh cho họ không được kể lại lúc xảy ra, trước khi «Con Người từ cõi chết trỗi dậy». Qua câu sau cùng này, Chúa Giê-su xác nhận sự mặc khải này cho ba môn đệ: Ngài là Đấng Mê-si-a trong thị kiến tiên tri Đa-ni-en, ngài được thấy dưới hình thức một con người bước xuống từ đám mây: «có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện.» (Đn 7, 13-14)
Tác phẩm còn tốt đẹp hơn lời tiên tri: nơi Chúa Giê-su, Người-Chúa, cả nhân loại sẽ nhận vương triều vĩnh hằng, đời đời sẽ được hiển linh. Thế nhưng, Chúa Giê-su nói rõ: «Đừng nói cho ai hay… cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy». Chỉ sau Phục Sinh của Chúa Giê-su, các Tông Đồ mới có thể là chứng nhân.
***
Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions
Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng