Lời Chúa CN

TÌM HIỂU CỰU ƯỚC CHÚA NHẬT II MÙA CHAY NĂM A - 08/03/2020

BÀI ĐỌC 1 (St 12, 1-4a)

 

"Áp-ra-ham, người cha dân Chúa, được kêu gọi."

 

Trích sách Sáng thế.

1 ĐỨC CHÚA phán với ông Áp-ram: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.

Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành.

3 Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi;

Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.

Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc."

Ông Áp-ram ra đi, như ĐỨC CHÚA đã phán với ông

 

«Khi ấy ông Áp-ra-ham sống ở Can-đê» (Lời người dịch: câu này không có trong bản dịch Thánh Kinh Việt nam). Lúc ấy ông còn mang tên Áp-ram - chỉ sau này, có thể nói, sau nhiều năm hành hương, Áp-ram nhận từ Thiên Chúa tên mới của ông, tên ngày nay, chúng ta đều biết, Áp-ra-ham (có nghĩa là cha của vô số con cháu); và thật vậy, chúng ta lũ lượt, ở rải rác khắp mặt đất nhận ông làm cha trong đức tin. Thế mà, vỏn vẹn những dòng chữ chúng ta vừa đọc trên đây, là văn bản đầu tiên của cả một hành trình đức tin, trước tiên là đức tin Do-thái, dĩ nhiên rồi, sau đó theo thứ tự thời gian, đức tin Ki-tô hữu và của người Hồi giáo.

Ông sống ở Can-đê, tức là xứ I-rắc hiện nay, chính xác là ở mãi cực đông-nam xứ I-rắc,  thuộc thị trấn tên là Our, trong thung lũng Êu-phơ-rát, gần vịnh Ba-tư. Ông sống với vợ tên Sa-rai (sau này bà cũng sẽ được Thiên Chúa đặt cho một tên mới gọi là Sa-ra). Áp-ram và vợ là Sa-rai không có con. Ông sống chung với cha là Te-ra và các anh em là Na-kho và Ha-ran, cùng với người cháu là Lót. Chúng ta đang ở trong thế kỷ thứ XIX trước CN; thời ấy, thật vậy, các sử gia ngày nay tìm lại có những dấu hiệu di dân trong thung lũng Êu-phơ-rát. Chính trong bối cảnh ấy, một ngày nọ, người bố già Tê-ra lên đường với Áp-ram, Sa-rai và đứa cháu nội là Lót. Đoàn người và thú vật đi ngược lên thung lũng Êu-phơ-rát, từ đông-nam lên tây-bắc với ý định trở xuống xứ Ca-na-an. Dĩ nhiên, có con đường ngắn hơn cái tam giác ấy, để nối liền vịnh Ba-tư với Địa Trung Hải, nhưng phải qua một sa mạc mênh mông. Tê-ra và Áp-ram chọn đi theo con đường hình «bánh sừng trâu», cái tên thật khéo chọn. Trạm dừng chân đầu tiên của họ, về hướng tây-bắc mang tên là Ha-ran. Nơi đây, người cha già qua đời. Chính nơi ấy - cách dây 4000 năm - khoảng 1850 năm trước CN - lần đầu tiên Thiên Chúa nói với Áp-ram.

Những chữ đầu tiên Chúa nói: «hãy ra đi vì ngươi» (vì lợi ích của ngươi). Rất tiếc, bản dịch của chúng ta chỉ chép: «Hãy rời bỏ xứ sở,… mà đi» (c.1), nhưng, nếu chúng ta thích tìm hiểu, có thể tra bản dịch của André Chouraqui - hoặc những ai may mắn hơn có bản dịch Do Thái ngữ - khi dịch sát nghĩa từng mỗi từ, thì không thể nào nghi ngờ được. Thế nhưng, tất cả lợi ích của đức tin hay không lợi ích là ở chỗ đó; trong cụm chữ «hãy ra đi vì ngươi». Sở dĩ Chúa gọi con người là vì hạnh phúc con người, không có chủ đích gì khác! Kế hoạch yêu thương của Chúa nằm vỏn vẹn trong chữ ấy «vì ngươi». Lúc ấy, Chúa đã mặc khải là Đấng muốn cho con người hạnh phúc (tại một thời điểm chính yếu khác trong đời Áp-ra-ham - lúc hiến tế I-sa-ắc - Chúa cũng dùng những từ ấy «hãy ra đi vì ngươi», nhắc lại cho ông, suốt đoạn đường đã đi qua để tăng nghị lực cho ông trước thử thách)

«hãy ra đi vì ngươi» «Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi» (c.1). Phần sau chỉ là lời hứa: «Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc» (c.3). Áp-ram được thoát khỏi vận mệnh tự nhiên của ông, được Thiên Chúa trao ban một ơn gọi có tầm vóc hoàn vũ. Áp-ram lúc bấy giờ chỉ là một người du mục, có thể giàu thật, nhưng không ai biết đến và không có con. Và vợ ông đã quá tuổi có thể sinh nở; thế nhưng, nơi ông, Chúa chọn làm cha một dân tộc lớn. Đó là ý nghĩa của chữ «vì ngươi» vừa rồi: Thiên Chúa hứa cho ông tất cả những gì làm cho hạnh phúc thời ấy: có một đàn con cháu đông đúc và được Thiên Chúa chúc phúc. Nhưng, hạnh phúc ấy không chỉ cho ông mà thôi: trong Thánh Kinh không bao giờ một thiên chức, một ơn gọi, để phục vụ quyền lợi ích kỷ của người được ban cho mà thôi. Tôi thiết tưởng, đó cũng là tiêu chuẩn của một ơn gọi đích thực: mọi ơn gọi luôn luôn là một sứ vụ phục vụ kẻ khác. Trong bài này có câu: «Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi» (c.3a). Kế hoạch hạnh phúc ban qua Áp-ram, nhưng vượt qua ông, tràn ra khỏi ông. Nó liên hệ đến cả nhân loại: «Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc» (c.3b). Suốt lịch sử Ít-ra-en, Thánh Kinh luôn trung tín với sự mặc khải đầu tiên ấy: Áp-ra-ham và dòng dõi con cháu là dân Chúa tuyển chọn, trong mầu nhiệm bí hiểm của thánh ý Ngài; nhưng vì lợi ích cho toàn thể nhân loại, và cứ như thế từ ngày đầu tiên, từ lúc loan báo cho Áp-ram.  

Giờ khởi đầu của cuộc hành trình vĩ đại đã điểm. Thể văn đơn sơ gần như trần trụi là điểm đáng chú ý của bài này; bài chỉ nói: «Ông Áp-ram ra đi, như ĐỨC CHÚA đã phán với ông» (4). Cuộc khởi hành chỉ vì một lời của Thiên Chúa là minh chứng tuyệt vời cho lòng tin. Bốn nghìn năm sau, chúng ta có thể nói, đức tin của mỗi chúng ta kín múc từ đức tin của tổ phụ Áp-ra-ham, đó cũng là đức tin Thánh Phao-lô phát biểu trong thư gửi tín hữu Ga-la-ta: «những ai dựa vào đức tin, những người ấy là con cái ông Áp-ra-ham; Như vậy, những kẻ dựa vào đức tin thì được chúc phúc làm một với ông Áp-ra-ham, người có đức tin» (Gl 3, 7.9). Và khi tác giả sách Do-thái nói lên đức tin là như thế nào, sự ra đi của ông Áp-ra-ham được nêu lên làm mẫu gương; sự ra đi này giống như nhảy vào một nơi chưa hề có ai biết, chỉ được lý giải bằng lòng cậy trông vào Thiên Chúa: «8 Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu (c8); Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách (c,9); Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. 12Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được (c11-12)»

***

 

THÁNH VỊNH (Tv 31, 4-5.18-19.20.22)

 

"Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài".

 

Vì lời CHÚA phán quả là ngay thẳng,
mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin.

5 Chúa yêu thích điều công minh chính trực,
tình thương CHÚA chan hoà mặt đất.

18 CHÚA để mắt trông nom người kính sợ Chúa,
kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương,

19 hầu cứu họ khỏi tay thần chết
và nuôi sống trong buổi cơ hàn.

20 Tâm hồn chúng tôi đợi trông CHÚA,
bởi Người luôn che chở phù trì.

22 Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy CHÚA,
như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.

 

(c.5) «… tình thương CHÚA chan hoà mặt đất», phải có lòng tin vững vàng mới có thể thốt lên câu này! Có lẽ, đây mới là đặc điểm của người tín hữu: trải qua suốt cuộc sống của họ, trong ấy niềm vui có, thử thách cũng có; dù thế nào đi nữa, mặt đất vẫn chan hòa tình thương của Chúa. Phải mất một chặng đường dài được Mặc Khải, nhân loại mới khám phá ra một sự thực nền tảng, đó là: Chúa là tình yêu, và mặt đất (hiểu ở đây là mọi tạo vật) chan hòa tình yêu của Ngài. Thực ra (tôi nhận xét có một mối liên quan tuyệt vời giữa những bài đọc của Chúa nhật Mùa Chay thứ hai này với Chúa nhật thứ nhất), khi tác giả sách Sáng thế nói về A-đam là nói về con người, trước khi được mặc khải tình yêu Thiên Chúa, một người sống trong tình yêu ấy mà không hề ý thức.

Tôi xin trở lại câu truyện vườn Địa Đàng, chúng ta đã đọc trong Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay năm nay: con người biết mình được tạo dựng để sống và thống trị một «mảnh vườn tuyệt vời» (đó là ý nghĩa của «vườn Địa Đàng»), nhưng chỉ vì ngờ vực giới răn Thiên Chúa, khiến cho con người lạc mất đường dẫn đến cây trường sinh, mặc dầu đã được dành cho ông. Hẳn các bạn còn nhớ câuchuyện có nói rõ: trong vườn ấy, Chúa cho «mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác» (St 2, 9). Tất cả các thứ cây ấy đều có thể ăn trái, chỉ trừ «cây cho biết điều thiện điều ác». Ở đây, tác giả ngụ ý nói trong bài tường thuật, khi Chúa cảnh báo A-đam đừng ăn trái của cây cho biết điều thiện điều ác; lẽ ra, con người và người đàn bà phải tin cậy, phải hiểu rằng, đó là để tránh cho họ sự dữ.

Hẳn các bạn còn nhớ câu của Triết gia Kierkegaard: ngược lại với tội lỗi không phải là nhân đức mà là đức tin, (lòng cậy trông). Chính vì lòng cậy trông ấy đã khiến cho ông Áp-ra-ham bỏ xứ mà ra đi, ra đi chỉ vì một lệnh của Chúa; nhưng thực ra, một lệnh hàm chứa lời hứa hạnh phúc… Tuy nhiên, muốn phó thác cả đời mình vì những lời hứa, cũng phải có lòng cậy trông hoàn toàn vững vàng. Cũng phải tin rằng ông Áp-ra-ham đã nghe rõ lời Chúa nói «Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi… Ta sẽ làm cho ngươi ...» (St 12, 1b-2a), có nghĩa,  ta gọi ngươi vì ngươi, vì quyền lợi của ngươi. Vấn đề của A-đam là đã tin trái ngược lại, tưởng rằng lệnh của Chúa có ý định xấu. Và suốt lịch sử của dân Chúa chọn, dao động giữa hai thái độ; lúc thì tin tưởng vững vàng nơi Chúa của mình, ý thức rằng cùng đích trung tín với những giới luật Chúa là hạnh phúc, vì sở dĩ Chúa ban cho Lề Luật là để cho con người hạnh phúc. «Vì lời CHÚA phán quả là ngay thẳng»; đó là (c.4) của bài Thánh vịnh hôm nay, là lời của lòng tín thác. Lúc khác thì trái ngược lại, dân chúng phản đối, nghe theo bụt thần: trung thành với Chúa làm chi, nghe theo Lề Luật làm chi? Quá khắt khe và vì lý do gì mà phải theo? Ai có thể bảo đảm rồi sẽ hạnh phúc? Chúng tôi muốn tự do, muốn làm gì thì làm… Chỉ vâng lời chính mình.

Tác giả bài thánh vịnh biết rõ những dao động của dân Chúa. Mời gọi họ trở lại dìm lòng xác tín, vào đức tin; đó là con đường duy nhất để xây dựng hạnh phúc lâu dài. Lòng xác tín vào đức tin ấy dựa vào một trải nghiệm qua nhiều thế kỷ. Có thể nói, chính vì ta đã có nhiều thử thách, nhưng «mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin» (c.4). Trong nguyên gốc bài này, chữ «làm», có nghĩa mạnh hơn trong tiếng Pháp: từ «làm» của Thiên Chúa, là kỳ công của Ngài, công trình cứu độ dân Ngài. Thật sự, qua kinh nghiệm dân Chúa chọn, có thể nói: «CHÚA để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương,» (c.18), vì Chúa trông nom họ như Người Cha trông nom con mình; như sách Đệ Nhị Luật nói lúc qua hoang địa sau khi giải phóng khỏi Ai-cập.

Các bạn hẳn đã chú ý cụm chữ «người kính sợ Chúa» được giải thích trong câu kế tiếp: đó là những «kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương». Thật xa với sự sợ hãi, còn trái ngược lại! Hẳn các bạn cũng còn nhớ, qua câu 13 thánh vịnh 102 ( 103), chúng ta đã gặp một định nghĩa khác của kính sợ Thiên Chúa; đó là thái độ tin tưởng của người con đối với lòng trìu mến, yêu thương của cha mình «Như người cha chạnh lòng thương con cái, CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn». Tác giả thánh vịnh còn tiếp trong bài hôm nay «hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn.» (c.19) Một lần nữa, ở đây chính kinh nghiệm nói lên; không thể nào còn sống nếu Chúa không can thiệp, mà cũng không sao còn sống lúc khi phải đi xuyên qua sa mạc. Còn «buổi cơ hàn», ở đây hẳn là ngụ ý nói đến bánh Ma-na, Chúa đã cho rơi xuống đúng lúc trong thời Xuất Hành, khi nạn đói bắt đầu đe dọa. Trải nghiệm về sự quan tâm của Thiên Chúa, tất cả dân Chúa chọn có thể chứng minh điều ấy suốt mọi thời đại, và một khi hát: «mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin» là lúc nhắc lại tên của Ngài: «Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín» (Xh 34, 6) đã được mặc khải cho ông Mô-sê.   

Bài thánh vịnh 32 bắt đầu bằng: «Người công chính, hãy reo hò mừng CHÚA, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen». Đây là một bài ca hoan hỉ, ngợi khen «Người công chính» - tiếng Do thái gọi là hassidim - là những người sống trong mối quan hệ Giao Ước với Thiên Chúa, quan hệ cậy trông và yêu thương. Toàn bài thánh vịnh ca ngợi những lý do của sự ngợi khen: tình yêu của Ngài luôn luôn bày tỏ, Lời Chúa, giải thoát khỏi Ai-cập, được nâng đỡ trong mọi cuộc chiến… Thiên Chúa lúc nào cũng đồng hành với con cái Ngài, và đặc biệt trong cơn thử thách. Chúa chăm chút những kẻ trông cậy nơi Ngài, những kẻ phó thác vào Ngài.

Định nghĩa từ «kính sợ Chúa» được rõ ràng nhờ sự đối xứng của đoạn thứ hai: những kẻ kính sợ là những những ai đặt hết hy vọng vào tình yêu của Ngài, «cứu họ khỏi tay thần chết» (c.19) (không phải sự chết thể lý); có thể tin cậy nơi Ngài: «Vì lời CHÚA phán quả là ngay thẳng… đáng cậy tin» (c.4). Cũng đừng quên hai từ đồng nghĩa: «lời CHÚA» và «việc Chúa làm»: Chúa nói gì thì làm như thế! Và đây là nguồn cậy trông tốt đẹp nhất cho chúng ta: «dự án cứu độ của Chúa không chỉ là một lời hứa, là một thực tế đang được xây dựng». Cả bài Thánh Vịnh là lời cổ vũ cho lòng cậy trông, bởi vì: «tình thương CHÚA chan hoà mặt đất».

Đoạn cuối là một lời nguyện, xin được cậy trông: «Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy CHÚA, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài». Và chúng ta cũng hiểu nghĩa cách phát biểu trong cấu trúc ngữ pháp này: đây không phải một xác tín; không phải «tình thương luôn đổ xuống chúng con», nhưng là lời mời gọi tín hữu mở lòng lãnh nhận tình thương ấy.

Trong câu 22 có cụm chữ: «chúng con hằng trông cậy». Đây là chiều kích sau cùng của bài thánh vịnh: sự chờ đợi của dân tộc Ít-ra-en. Chúng ta nên chú ý những từ «chờ đợi, hy vọng, cậy trông». Chính trong lòng cậy trông ấy, người Tôi Trung kín múc năng lực: không phải năng lực của chính mình mà do Chúa ban cho.

***

 

Tác giả: Marie-Noëlle Thabut                        
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions


Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân               

Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng                 


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com