BÀI ĐỌC 2 (Pl 2, 6-11)
"Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh người."
Trích thư Thánh Phao-lô Tông Đồ gửi tín hữu thành Phi-líp-phê
6 Đức Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
7 nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
8 Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự.
9 Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
10 Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su,
cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ,
muôn vật phải bái quỳ;
11 và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,
mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:
"Đức Giê-su Ki-tô là Chúa".
Đoạn này rất nổi tiếng. Người ta thường gọi là «Bài Ca Thánh Thư gửi Tín Hữu Phi-líp-phê»; bởi vì, nghe bài này, người ta có cảm tưởng như Thánh Phao-lô không tự mình sáng tác, nhưng ngài trích từ một bài thánh ca thường hát trong phụng vụ.
Hình như, một trong những cái bẫy của bài này
khi chúng ta đọc, chúng ta bị cám dỗ nghĩ rằng, nội dung bài có liên quan đến sự xứng đáng và phần thưởng.
Với sơ đồ ấy là: Chúa Giê-su xử sự một cách tuyệt vời, và vì thế, Ngài nhận được
phần thưởng đáng khâm phục! Sở dĩ tôi dám nói «cám dỗ», vì tất cả cách trình bày chương trình của Thiên Chúa có liên quan
đến tính toán, phần thưởng, xứng đáng - mà tôi gọi là
tương quan toán số - là trái ngược với «ân sủng» Thiên Chúa. Ấn sủng, theo định nghĩa là những gì ban cho nhưng không! Và, thật lạ lùng, chúng ta khó lý luận theo
mối tương quan cho nhưng không. Chúng ta luôn bị cám dỗ suy luận theo cách qua lại quan hệ xứng đáng = phần thưởng. Nhưng nếu Thiên Chúa chờ đợi chúng ta xứng đáng, thì trong trường hợp này, chúng có thể đáng lo lắng… Điều tuyệt vời của tình yêu Thiên Chúa, là Ngài không chờ chúng ta xứng đáng mới tràn ơn cho chúng ta; ít nữa, đó là điều mà Thánh Kinh nói cho chúng ta biết bằng mọi cách. Vì thế, tôi thiết tưởng để trung thành với bài này, nên đọc với một tương quan cho nhưng không. Nếu không, chúng ta có nguy cơ hiểu trái nghĩa, nếu quên rằng là quà tặng nhưng không từ Thiên Chúa, «tất cả là hồng ân» như Thánh Bernanos nói.
Hồng ân Thiên Chúa là quà nhưng không, đối với Thánh Phao-lô, đó là điều hiển nhiên. Điều hiển nhiên này tiềm ẩn trong mọi bài thánh thư, quá hiển nhiên đến độ ngài thấy không cần nói rõ lại. Nếu thử tóm lược tư tưởng Thánh Phao-lô, tôi có thể nói: hồng ân Thiên Chúa là quà nhưng không; bởi chúng ta tự loại chúng ta khỏi món quà nhưng không ấy, nếu chúng ta chọn thái độ đòi hỏi, như một yêu sách, nếu chúng ta cư xử như người phụ nữ vườn Địa Đàng: bà lấy trái cấm, bà chiếm hữu nó như đứa trẻ «cuỗm lấy» trên giang hàng trái cây… Trái lại, Chúa Giê-su Ki-tô chỉ có tiếp nhận (điều Thánh Phao-lô gọ là «vâng lời»), và bởi vì Ngài chỉ tiếp nhận hồng ân từ Thiên Chúa và không đòi hỏi, Ngài được toại nguyện.
Có cách khác để bày tỏ điều này: chương trình Thiên Chúa («Kế hoạch yêu thương» của Ngài), đó là đưa chúng ta trong vòng mật thiết với Chúa, vào hạnh phúc của Ngài, với tình yêu tuyệt hảo của Ngài. Chương trình ấy hoàn toàn nhưng không, điều này dĩ nhiên không có chi đáng kinh ngạc, bởi vì đây là một chương trình yêu thương. Hồng ân ấy từ Thiên Chúa, việc đưa chúng ta vào đời sống thiêng liêng của Ngài, chúng ta chỉ cần tiếp nhận; tôi có khuynh hướng muốn nói, tiếp nhận với một niềm vui kinh ngạc thán phục tuyệt vời. Chẳng có vấn đề xứng đáng hay không, đây là món quà. Với Thiên Chúa tất cả là quà tặng. Thế nhưng, chúng ta cũng biết có cách này cách nọ để nhận một món quà: hoặc chúng ta nhận như một cách tử tế, có nghĩa là đơn sơ và với lòng biết ơn…. hoặc tìm cách chiếm hữu, như một sở hữu, gần như cướp lấy nó… Khi ấy, món quà không còn ý nghĩa món quà nữa, mọi quan hệ bị hỏng mất. Và nếu món quà ấy tuyệt vời (tình bạn, tình yêu…) thì tất cả bị hỏng, bởi vì tình bạn, tình yêu thì không thể cướp lấy được. Tình bạn, tình yêu được lãnh nhận, có thể nói, trong tư thế quỳ gối trong niềm vui ngạc nhiên thán phục và lòng biết ơn. Nơi đây, món quà Thánh Phao-lô nói là tình yêu vô tận của Chúa, đó là sự sống của Ngài.
«Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa» mà không nghĩ, phải nhất quyết đòi hỏi địa vị ngang hàng với Thiên Chúa (c.6). Qua đoạn này, tôi xin lưu ý, đây là một lời xác quyết rất quan trọng về thiên chức của Chúa Ki-tô. Thánh Phao-lô bắt đầu rao giảng đạo Ki-tô và sáng lập cộng đồng Ki-tô hữu tại Phi-líp-phê vào năm 49 hay 50; ít người biết chính xác bài thánh thư này được viết vào năm nào: nhưng điều chắc chắn là trước khi có các Phúc Âm! Vì thế, vào thời ấy, đây là cách xác quyết minh bạch về tính hằng hữu và thiên tính của Đức Giê-su.
Bây giờ chúng ta trở về câu: «Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa». Chính vì Ngài có địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài mới biết là tình yêu nhưng không… Ngài biết là không nên đòi hỏi, Ngài suy luận rằng đòi hỏi duy trì ngang hàng với Thiên Chúa là không phải lẽ… Thế nhưng, chính điều ấy, Thiên Chúa muốn trao tặng cho chúng ta! Cho chúng ta như món quà. Rốt cuộc, chính xác Thiên Chúa đã ban điều ấy. Vấn đề giống như giai đoạn Cám Dỗ trong sa mạc: quỷ đề nghị những điều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa! Nhưng Ngài từ chối chiếm hữu, Ngài trông chờ nơi Chúa Cha ban cho Ngài.
Chúa nhận: «danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.» (c.9): đó chính là Tên Thiên Chúa! Gọi Chúa Giê-su là Chúa, có nghĩa Ngài là Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, chữ Chúa chỉ dành cho Thiên Chúa, cũng như cử chỉ bái gối, điều này ám chỉ đến tiên tri I-sa-i-a: «Ta lấy chính danh Ta mà thề, lời chân thật này thốt ra khỏi miệng Ta, Ta quyết chẳng bao giờ rút lại: Trước mặt Ta, mọi người sẽ quỳ gối, và mở miệng thề» (Is 45, 23).
Chúa Giê-su đã sống cuộc đời trần thế của Ngài trong khiêm nhu và cậy trông ngay trong những lúc tồi tệ nhất, tức là lòng hận thù của con người và sự chết. Tôi dùng chữ «cậy trông» còn Thánh Phao-lô dùng chữ «vâng phục». Tiếng Pháp là Obeir, trong đó có gốc La-tinh ob-audire, theo nghĩa đen là để tai trước lời nói: đó là tư thế đàm thoại hoàn hảo, không tì bóng; tức là hoàn toàn tin tưởng. Sở dĩ để tai nghe trước lời nói, bởi vì ta biết lời nói ấy là tình yêu, có thể nghe, không phải lo lắng sợ sệt.
Bà thánh thư kết thúc bằng câu: «mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa"» (c.11): vinh quang là bày tỏ, là mặc khải tình yêu vô tận, tình yêu hiện thân. Nói cách khác, khi thấy Chúa Giê-su đem tình yêu lên tột đỉnh, chúng ta có thể nói như người sĩ quan La-mã: «Quả thật, người này là Con Thiên Chúa» (Mc 15, 39)
***
PHÚC ÂM (Mt 26, 14-27, 66)
Bài thương khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.
- Khi ấy, Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn và quan hỏi Người rằng:
- “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”
- Chúa Giêsu đáp :
X “Ông nói đúng”.
- Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Phi-la-tô bảo Người:
- “Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?”
- Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tùy ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Ba-ra-ba. Vậy Phi-la-tô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:
- “Các người muốn ta phóng thích ai, Ba-ra-ba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?”
- Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:
- “Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy”.
- Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Ba-ra-ba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:
- “Trong hai người đó, các ngươi muốn ta phóng thích ai?”
- Họ thưa:
- “Ba-ra-ba!”
- Phi-la-tô hỏi:
- “Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô ta phải làm gì?”
- Họ đồng thanh đáp:
- “Đóng đinh nó đi!”
- Bấy giờ Phi-la-tô thấy mất công lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:
- “Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi”.
- Toàn dân đáp:
- “Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi”.
- Bấy giờ quan phóng thích Ba-ra-ba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá. Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:
- “Tâu vua dân Do Thái!”
- Đoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Sy-rê-nê tên là Si-mon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người. Họ đi đến một nơi gọi là Gol-gotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: “Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm”. Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau : “Người này là Giêsu, vua dân Do Thái”. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả. Những người đi ngang qua, lắc đầu chế giễu Người và nói:
- “Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!”
- Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:
- “Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua Do Thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: “Ta là Con Thiên Chúa!”.
- Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng :
X “Ê-li, Ê-li, La-ma sa-bac-tha-ni!”
- Nghĩa là:
X “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi ! Sao Chúa bỏ tôi!”
- Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:
- “Nó gọi tiên tri Ê-li-a”.
- Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy giấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:
- “Hãy chờ xem Ê-li-a có đến cứu nó không?”.
- Đoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng trong giây lát)
- Bỗng nhiên màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, sợ hãi và nói:
- “Đúng người này là Con Thiên Chúa”.
Một trong các đặc điểm của bài này là sự phong phú các danh hiệu dành cho Chúa Giê-su, chỉ trong chỉ mấy hàng, nói lên những giờ phút cuối cùng của cuộc đời trần thế của Ngài. Một người hoàn toàn bị phá huỷ, bị tổn thương từ thân xác đến phẩm giá, bị phỉ nhổ, bị kết án là phạm thượng - một tội nặng nhất dưới mắt đồng bào Người - nhưng đồng thời vô tình được những người nước ngoài tôn vinh, và ban cho Ngài những danh chức cao trọng nhất của Do Thái giáo. Chúng ta hãy nhìn lại toàn bộ những gì chúng ta vừa nghe: «vua dân Do-thái, Đấng Mê-si-a, Đấng công chính, và sau cùng là Con Thiên Chúa».
Vua dân Do-thái. Tổng trấn Phi-la-tô hỏi Chúa: «Ông có phải là Vua dân Do-thái không?» Bằng câu trả lời «Ông nói đúng!» Chúa có vẻ chấp nhận. Trong Tin Mừng Chúa Giê-su Kitô theo Thánh Mác-thêu, đó là gần như những lời cuối cùng của Chúa trước khi chết: trong giai đoạn cuối của phiên xử Ngài, đến lúc hành quyết, Chúa không nói gì khác, ngoại trừ một lời cầu nguyện của dân tộc Ngài, bài thánh vịnh 21: «Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?», lời cảm tạ dân It-ra-en nhìn nhận Thiên Chúa luôn luôn cứu độ, ngay trong những lúc nguy khốn nhất.
Danh hiệu vua dân Do Thái được nêu lên ba lần, nhưng lúc nào cũng mỉa mai để nguyền rủa Ngài, để nhạo báng tham vọng lố lăng của Ngài. Trước tiên là các binh lính La mã thích thú đùa cợt: họ ngụy trang Chúa thành vua. Vừa đánh đòn Ngài xong, chúng khoác một áo choàng màu đỏ, ứng biến một cái mão gai, một cây gậy làm vương trượng; họ quỳ trước mặt Ngài, tỏ vẻ sùng kính trước đấng bề trên… Chúng ta dễ tưởng tượng tâm trạng sau Phục sinh của những Ki-tô hữu, khi nhớ lại cái vở bi kịch độc ác này: vở kịch dựng lên để hạ nhục Chúa, nhưng nó không thể nào xoá đi sự rực rỡ tính vương giả thật sự của Ngài. Cũng chính thánh sử Mát-thêu này viết: «quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.» (Mt 16, 18)
Sau đó, tấm biển treo trên thập giá quả quyết «Đây là Giê-su, vua Do Thái», Thánh Mát-thêu đã có dịp nói cho các độc giả, ý nghĩa tên Giê-su; khi báo tin cho Thánh Cả Giu-se, thiên thần nói: «Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.» (Mt 1, 21). Chúng ta có ở đây, trên tấm biển đơn sơ này tất cả mầu nhiệm Chúa Giê-su: vua và đấng cứu độ dân Ngài; đó là Đấng Mê-si-a mọi người hằng mong đợi. Cuối cùng, giáo quyền, các trưởng tế, các kinh sư và bô lão cũng quả quyết: «Ông là vua dân Do-thái» (Mt 27, 11), trong bài này, mặc dù để chế nhạo Chúa, nhưng Thánh Mát-thêu cũng nhấn mạnh để cho chúng ta hiểu rằng «chúng không biết những đìều chúng nói».
Danh hiệu «Mê-si-a» được Phi-la-tô nêu lên hai lần, trong dịp quả quyết danh tánh Chúa Giê-su; điều này được thốt lên từ miệng vợ của Phi-la-tô, tức là một người ngoại. Bà nhận được một mặc khải, bà nói thấy trong mộng (mọi người biết tầm quan trọng các giấc mộng theo Thánh Mát-thêu). Thì đây, chính bà trao tặng cho Chúa Giê-su một danh hiệu cao trọng nhất trong Cựu Ước, đó là một người công chính. Chính bà cũng không ý thức tầm quan trọng các lời bà nói ra, nhưng các Ki-tô hữu, vài năm sau và ngay cả bây giờ; mỗi khi tưởng niệm sự kiện cái chết và sự phục sinh của Chúa Ki-tô, đều phải công nhận rằng các người ngọai đạo, xuất thân từ quân chiếm đóng là những người đầu tiên nói sự thật về Chúa Giê-su; trong khi vẻ bên ngoài, đấng Giê-su dường như bị xoá bỏ khỏi lịch sử nhân loại.
Sau rốt, danh hiệu «Con Thiên Chúa» cũng được gán cho Ngài cũng để nhạo báng. Một đàng là trước mắt người qua lại, nhận xét một cách nhẫn tâm sự tương phản, giữa cái danh chức to lớn treo trên thập gía và sự bất lực vĩnh viễn của Ngài. Sau đó, lại đến phiên các thượng tế, kinh sư và các bô lão thách đố Chúa: nếu người thật là Con Thiên Chúa thì đâu phải nên nỗi này. Và thật vậy, trong vài trang sách Cựu Ước cũng được viết trong ý nghĩa ấy. Nhưng danh hiệu ấy, rốt cuộc được người sĩ quan La- mã nêu lên, và khi ấy nó vang lên như một lời tuyên xưng đức tin «Đúng người này là Con Thiên Chúa».
Đến đây, tôi có cảm tưởng danh hiệu dâng cho Chúa Giê-su như kết thúc bài tường thuật. Câu này tiên báo sự hoán cải các người ngoại và giúp chúng ta hiểu sứ điệp Thánh Mát-thêu: đối với Ngài, cái chết Chúa Ki-tô không phải một thất bại mà là một sự vinh thắng.
Sở dĩ Thánh Mát-thêu làm rõ nét sự tương phản, giữa sự yếu đuối của người tử tù và sự vĩ đại của một vài người ngoại; mặc cho vẻ bên ngoài đã nhận ra Chúa, là để cho chúng ta hiểu một điều, nếu nhìn thoáng qua không thể tưởng tượng được: chính trong sự yếu đuối, Chúa Giê-su biểu dương uy thế thật sự của Ngài, uy thế của Thiên Chúa, đó là tình yêu vô tận. Không phải vinh quang mặc dù có thánh giá hay vinh quang nhờ thánh giá như thể để bù trừ lại; nhưng vinh quang trong thánh giá và bởi thánh giá; vì đây là một mặc khải tình yêu tột đỉnh, nghĩa là mặc khải Thiên Chúa tình yêu.
Chúa Giê-su đã cho ý nghĩa cái chết của Ngài: «Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.» (Ga 15, 13). Nếu câu ấy đúng như vậy, Ngài nên chết đi! Và chúng ta hiểu rõ hơn câu sau đây được nói lên, ba ngày sau cho mấy môn đệ trên đường Em-mau: «Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?» (Lc 24, 26)
***
Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions
Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng.