BÀI ĐỌC 1 (Is 50, 4-7)
"Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười,
nhưng tôi biết sẽ không phải hổ thẹn."
Trích sách tiên tri I-sa-i-a.
4 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng
đã cho tôi nói năng như một người môn đệ,
để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức.
Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi
để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.
5 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
6 Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
7 Có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
Chúng ta đã gặp, cách đây vài tuần, vào Chúa nhật thứ hai thường niên, một bài trích sách tiên tri I-sa-i-a mô tả dung nhan Người Tôi Trung Thiên Chúa. Trong bài này, tiên tri I-sa-i-a vạch ra mối quan hệ tuyệt vời giữa Người Tôi Trung với Thiên Chúa của Ngài. Đặc tính chính yếu, hẳn là sự tín nhiệm: «lắng tai nghe như một người môn đệ», đó là thái độ hoàn toàn tin tưởng: «ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ… ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi».
Thái độ này hoàn toàn trái ngược với thái độ của A-đam, A-đam người ngờ vực, ông ngờ ý định của Thiên Chúa, và tưởng mình đã hiểu khi nghe tiếng xì xào rằng Chúa ganh với tạo vật của Ngài… Tác giả viết bài tường thuật lỗi lầm A-đam, chính xác muốn cho thấy sự ngờ vực từ sâu thẳm đáy lòng; là nguồn gốc dẫn chúng ta lầm đường và những đau khổ của chúng ta, đưa chúng ta đến cái chết; vì nó chia cách ta với Thiên Chúa, là nguồn mạch sự sống: chúng ta được dựng nên để sống bằng hơi thở của Chúa (hẳn các bạn còn nhớ, Chúa nhào nắn con người bằng bụi đất, rồi thổi vào mũi chúng ta hơi thở hằng sống): ngờ vực, tức là cắt lìa chúng ta với mối quan hệ sống còn ấy.
«Lắng tai nghe» hiểu theo Thánh Kinh, là ngược lại với thái độ xì xào, phản đối như ở Ma-xa và Mơ-ri-va. Nơi ấy, dân chúng vừa mới được Thiên Chúa giải thoát - thoát khỏi nhà nô lệ, như họ nói - tức là kiếp nô lệ bên Ai Cập; dân chúng vừa mới trải nghiệm từ xương máu, hành động cứu độ của Thiên Chúa, lại mở lòng ngờ vực Chúa của họ khi phải đối đầu với những thử thách của sa mạc (ở đây là sự khát). Và từ nay, chúng ta quen đặt cạnh nhau hai thái độ mẫu, đời chúng ta không ngừng dao động giữa hai thái độ ấy: trông cậy, tin tưởng vào Thiên Chúa, phó thác, bình tâm theo thánh ý Ngài; vì ta biết qua trải nghiệm, ý Chúa chỉ có thể tốt đẹp… hoặc nghi kỵ, ngờ vực những ý định Thiên Chúa và phản kháng trước thử thách. Một sự phản kháng có thể đưa đến tình trạng, chúng ta tin rằng Chúa bỏ rơi chúng ta, hay, tệ hơn, Ngài tìm thấy một sự thoả mãn nào đó khi ta đau khổ. Các ngôn sứ, lần lượt hết người này đến người khác lặp lại «hỡi It-ra-en, hãy nghe đây» hay là «hãy nghe lời ĐỨC CHÚA phán.» (Is 1, 10) và từ miệng các vị «nghe», có nghĩa là «luôn luôn tin tưởng vào Thiên chúa bất cứ trong tình huống nào». Thánh Phao-lô giải thích tại sao: tại vì: «Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định» (Rm 8, 28). Từ bất cứ sự dữ nào, khó khăn nào hay thử thách nào, Chúa đều làm nảy ra sự lành; từ hận thù, Ngài chống đỡ lại bằng một tình thương còn mãnh liệt hơn nữa; trong mọi bách hại, Ngài ban sức mạnh để tha thứ; từ sự chết, Ngài cho nảy sinh sự sống, sự Phục Sinh.
Chính nhờ lòng cậy trông ấy, Người Tôi Trung chấp nhận sứ vụ được trao phó. Khi chúng ta có cơ hội thật sự phục vụ tha nhân một cách thực tế ; có thể nói, chúng ta nghe theo lệnh và khi ấy - chúng ta biết qua trải nghiệm - chúng ta có nghị lực, có tiềm năng cần thiết để thực hiện. Như bài này nói: «ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,» (c.7).
Tôi cố tình nói «sứ vụ được trao phó». Không phải để chơi chữ, nhưng để thể hiện một sự tin tưởng lẫn nhau. Chúa tin tưởng nơi người tôi trung của Mình, Ngài trao một sứ vụ; để đáp lại, người tôi trung tin tưởng chấp nhận. Và chính vì chính lòng tin tưởng như thế, mới mang lại nghị lực cần thiết, để chịu đựng những đối kháng phải gặp tất nhiên trên đường. Trong bài này là sứ vụ của người ngôn sứ: «để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức.» (c.4). Nhân dịp này, tôi xin lưu ý một lần nữa, mọi sứ vụ đều để phục vụ người khác. Một khi trao sứ vụ ấy, Chúa ban nghị lực cần thiết, Ngài cho lời cần thiết: «ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ» (c.4). Chính Ngài nuôi dưỡng lòng tin tưởng ấy, là suối nguồn mọi khả năng táo bạo phục vụ tha nhân: «ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi,» (c.5), có nghĩa là khả năng «nghe» (theo Thánh Kinh là tin tưởng, cậy trông ) đều là ơn ban nhưng không từ Thiên Chúa. Tất cà là quà tặng của Ngài: sứ vụ, và cả sức mạnh cùng cả lòng tin tưởng, giúp không lay chuyển. Đặc điểm người tín hữu nhìn nhận đó là quà từ Thiên Chúa trao ban.
Và kẻ sống trong ơn thường xuyên sức mạnh từ Thiên Chúa, có thể đương đầu dũng cảm với mọi sự: «tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.» (c.5). Trung thành với sứ vụ đòi hỏi bắt buộc phải bị bách hại: những ngôn sứ thật sự, tức là những người thật sự nói nhân danh Thiên Chúa ít khi chết trên giường bệnh… Vì trung thành với Lời của Chúa, tất nhiên đưa đến Người Tôi Trung phải làm điều cá biệt, làm mất lòng. Nếu thật sự «nghe» Lời Chúa- tức là đem ra thực hành – thì sẽ nhanh chóng làm xáo trộn. Sự hoán cải của người Tôi Trung mời gọi người khác hoán cải. Có người nghe theo, có người bác bỏ và nhân danh lý lẽ của họ, quay ra bách hại Người Tôi Trung (Đó là chính xác những gì xảy ra cho Chúa Giê-su thành Na-da-rét)
Vì thế mỗi buổi sáng, người Tôi Trung phải múc lấy nghị lực từ nơi Đấng ban cho khả năng đối đầu, dũng cảm với mọi sự: «Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ… vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.» (c.4…7). Ở đây, tiên tri I-sa-ia dùng một ngôn từ có vẻ lạ lùng trong tiếng Pháp, nhưng rất thông thường trong Do Thái ngữ: «tôi trơ mặt ra như đá». Đây là cách phát biểu sự quả quyết và lòng dũng cảm. Tiếng Pháp đôi khi người ta nói «mặt rã rời», thế thì ở đây, Người Tôi Trung quả quyết «không có gì có thể đè bẹp tôi, tôi sẽ đứng vững dù gì đi nữa, các bạn sẽ không thấy mặt tôi rã rời». Đây không phải lòng tự kiêu hay tự tin thái quá; chỉ
đơn giản là lòng tin, vì người Tôi Trung biết nghị lực của mình từ đâu đến: «Có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi… Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.»
***
THÁNH VỊNH (Tv 21, 8-9.18-20.23-24)
"Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con?"
8 Thấy con ai cũng chê cười,
lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai:
9 "Nó cậy CHÚA, mặc Người cứu nó!
Người có thương, giải gỡ đi nào! "
17 quanh con bầy chó đã bao chặt rồi.
Bọn ác đó trong ngoài vây bủa,
chúng đâm con thủng cả chân tay,
18 xương con đếm được vắn dài;
chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem.
19 Áo mặc ngoài chúng đem chia chác,
còn áo trong cũng bắt thăm luôn.
20 Chúa là sức mạnh con nươn
cứu mau, lạy CHÚA, xin đừng đứng xa.
23 Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
cho anh em tất cả được hay,
và trong đại hội dân Ngài,
con xin dâng tiến một bài tán dương.
24 Hỡi những ai kính sợ ĐỨC CHÚA,
hãy ca tụng Người đi!
Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp,
nào hãy tôn vinh Người!
Dòng dõi Ít-ra-en tất cả,
nào một dạ khiếp oai!
Thoáng đọc qua, thật tình tưởng như bài ThánhVịnh 21(22 ) này được viết đặc biệt cho Chúa Giê-su, ví dụ như câu 17-18: «Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, 18 xương con đếm được vắn dài», đúng là bài miêu tả cảnh hành quyết trên thập giá, dưới ánh mắt tàn nhẫn - có thể có ít nhiều tính tò mò bệnh hoạn - của các đao phủ và đám đông: «quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa; 19 Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn.»
Thật vậy, Chúa Giê-su đã sống những cảnh tương tự. Tuy nhiên, bài Thánh Vịnh này không viết cho Ngài; hơn nữa,chuyện kể về việc đóng đinh trên thập gíá không phải là trung tâm của đề tài.
Bài Thánh Vịnh không viết cho Chúa Giêsu, lý do dễ hiểu là bài này được viết sau khi được giải thoát khỏi cảnh lưu đày Ba-by-lon. Sở dĩ tôi nói nhiều về Ba-by-lon, vì đó là một giai đoạn quyết định trong đời sống và đức tin của dân Chúa chọn: một giai đoạn ghê gớm, khủng khiếp… và đồng thời, cũng là thời điểm của lòng tin và cầu nguyện liên lỉ, thời gian của tái khám phá Lời Chúa, và lòng cậy trông.
Để trở về với Thánh Vịnh này, bài được viết và được hát như một thánh ca lúc thoát cảnh lưu đày Ba-by-lon. Ngày trở về này ví như một tử tù được sống lại: It-ra-en được ví như một tử tù suýt chết trên thập giá (Xin đừng quên thời ấy cách xử tử bằng thập giá rất thông thường). Người tử tù này bị lăng nhục nặng nề, phỉ nhổ, đóng đinh, thí mạng vào tay những đao phủ… và rốt cuộc, được thoát nạn như một phép lạ, không chết. Và từ nay, người tử tù này sống trong niềm hân hoan reo mừng cho khắp mọi người nghe, còn to tiếng hơn lời than thở lúc tuyệt vọng. Như thế, việc đóng đinh trên thập giá đâu phải cốt lõi của câu chuyện,mà chỉ để minh họa rõ hơn lời tạ ơn của kẻ (It-ra-en) vừa được thoát một sự kiện kinh hoàng.
Giữa lúc khốn cùng, người bị nhục hình không ngưng kêu cầu cứu, và không một giây phút nào ngờ vực rằng Thiên Chúa sẽ lắng nghe. Lời kêu van mà chúng ta biết rõ "2 Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?" đúng là một lời van xin trước sự im lặng của Thiên Chúa, nhưng không phải một lời tuyệt vọng. Trái hẳn lại! Đây là lời cầu nguyện của một kẻ đau khổ, mà dám kêu lên sự đau khổ của mình. Thì đây, chúng ta cũng được soi sáng về lời cầu nguyện của chúng ta khi gặp những lúc đau khổ, bất cứ sự đau khổ ấy từ đâu đến: Chúng ta có quyền kêu van, Thánh Kinh mời gọi chúng ta làm như thế.
Bây giờ chúng ta nên xét kỹ câu "2 Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa", câu này nói lên trải nghiệm bị bỏ rơi, trong lúc hoàn toàn khốn cùng. Một trải nghiệm không thể chối cãi, mà dân It-ra-en đã gánh chịu trong suốt lịch sử… Thế nhưng, chỉ riêng cụm chữ: "Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa" chứng tỏ cho chúng ta rằng, không bao giờ họ mất lòng tin, Chúa sẽ cứu và giải thoát họ. Câu này không phải ngẫu nhiên với ý nghĩa tầm thường: chỉ câu này thôi, đủ nhắc lại Giao Ước với Thiên Chúa: "22 Các ngươi sẽ là dân Ta chọn, và Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi" (Gr 30, 22), câu này luôn được nói lên, mỗi khi đề cập đến Giao Ước. Trong Thánh Kinh mỗi lần chúng ta đọc "Dân ta" hay "Chúa của các ngươi" ... là chúng ta phải hiểu, đây là nói tới Giao Ước với Thiên Chúa.
Vì thế, bài Thánh Vịnh này, thật ra là bài thánh ca lúc trở về, sau bao nhiêu năm lưu đày. It-ra-en tạ ơn Chúa. Họ nhớ đến những đau khổ đã qua, những lúc lo lắng trước Thiên Chúa có vẻ thinh lặng. Họ có cảm tưởng bị bỏ rơi trong tay địch thù, nhưng… cứ tiếp tục cầu nguyện. Lời cầu nguyện, và chỉ lời cầu nguyện này thôi, cũng chứng tỏ họ không hoàn toàn mất hy vọng. Nếu không phải thế, thì họ cũng chẳng cầu nguyện nữa! It-ra-en tiếp tục nhắc nhở nhau Giao Ứớc và những hồng ân từ Thiên Chúa.
Xét cho cùng, bài Thánh Vịnh này giống như một lời nguyện hứa của chúng ta: Trước cảnh ngặt nghèo, chúng ta cầu nguyện và dâng một lời khấn (đại loại như nếu con thoát qua, con sẽ dựng một bia cho thánh… nào đó) và sau đó, nếu được toại nguyện thì giữ lời hứa ấy. Ví dụ như dưới miền Nam nước Pháp, trên các bức tường của những nhà thờ có đầy rẫy những bức tranh, miêu tả những cảnh nguy khó được thoát nạn trong quá khứ. Trong đầu tôi còn nhớ rõ, một bức tranh thật thảm thương của một cuộc đắm thuyền dưới sông Rhône; trong ấy, cho thấy những cha mẹ bất lực nhìn các con của mình dưới nước: chính những người đã khấn, thuê vẽ những bức tranh này khi các con của họ thoát chết. Bức tranh ấy có ý nói lên: đấy chuyện suýt nữa đã xảy ra như thế này.
Thánh Vịnh 21 của chúng ta giống như thế. Bài nói lên lòng tuyệt vọng, tình cảnh bất lực trước sự thử thách; và sự thử thách ở đây là lòng hận thù của loài người "2 Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?", chúng ta có thể hiểu, sao Ngài "bỏ mặc chúng con cho sự hận thù của kẻ dữ?" Chúa biết dân It-ra-en đã chạm trán rất nhiều lần với lòng hận thù của con người… nhưng bài Thánh Vịnh này còn nói hơn thế nữa. Cũng như những lời khấn của chúng ta, bài này nói lên tất cả lòng tạ ơn của kẻ đã chịu ơn Thiên Chúa; và chỉ từ Thiên Chúa mà thôi, mới có sự tự do của họ ngày nay.
«23 Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa, cho anh em tất cả được hay»
Theo cách nói của Thánh Kinh, đó là cách nhìn nhận Chúa, luôn luôn can thiệp để giải thoát. Và lời tạ ơn tiếp tục:
«và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương. 24 Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi!»
Những câu sau của bài Thánh Vịnh, chỉ là những lời tạ ơn và tán dương. Rất tiếc, chúng ta không đọc hết trong Lễ Lá hôm nay. Có lẽ, nên chăng chúng ta phải thuộc lòng?
27 Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê,
người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng.
Cầu chúc họ vui sống ngàn đời.
28 Toàn thế giới, muôn người nhớ lại
và trở về cùng Chúa.
Mọi dân tộc dưới trần
phủ phục trước Tôn Nhan.
29 Bởi vì Chúa nắm quyền vương đế,
Người thống trị chư dân.
30 Mọi kẻ ngủ yên trong lòng đất
sẽ đều bái lạy một mình Người,
phàm những ai trở về cát bụi
sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan.
Phần tôi, nguyện sẽ sống cho Chúa,
31 con cháu tôi sẽ phụng sự Người.
Thiên hạ sẽ nói về Đức Chúa
cho thế hệ tương lai,
32 truyền tụng cho hậu sinh đức công chính của Người,
rằng: "Đức Chúa đã làm như vậy!"
***
Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions
Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng.