Lời Chúa CN

TÌM HIỂU CỰU ƯỚC CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN NĂM A - 16/08/2020

BÀI ĐỌC 1 (Is 56, 1.6-7)

 

"Ta sẽ dẫn con cái Ta lên núi thánh"

 

Trích sách Tiên tri I-sa-i-a.

 

1 ĐỨC CHÚA phán như sau: Hãy tuân giữ điều chính trực,
thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới,
và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ.

6 Người ngoại bang nào gắn bó cùng ĐỨC CHÚA
để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh,
cùng trở nên tôi tớ của Người,
hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm,
cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta,

7 đều được Ta dẫn lên núi thánh
và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta.
Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận
những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng,
vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.

 

Bài này khởi đầu quyển sách được gọi là Sách Thứ Ba I-sa-i-a, sách được viết trong thập niên đầu sau khi từ Ba-by-lon về, có lẽ là cuối thế kỷ thứ VI hoặc đầu thế kỷ thứ V. Chúng ta thường thấy cuộc hội nhập về xứ không hề đơn giản. Sau năm mươi năm, không thể tìm lại những gì như lúc bỏ lại trước khi ra đi, và làm sao chung sống với những người đã chiếm chỗ lúc ta vắng mặt? Ngược lại, những người địa phương lo ngại với những người đi đày trở về; họ nói với nhau: «Hẳn ĐỨC CHÚA đã tách tôi ra khỏi dân Người.» (c3b), những người bị hoạn cũng thế, họ đặt câu hỏi: «Chính tôi đây là một cây khô…» (c3c) (ngụ ý nói, họ sẽ loại chúng tôi ra). Tất cả những lo sợ ấy có lý của nó, vì lâu nay luận thuyết Thiên Chúa lựa chọn dân tộc It-ra-en, đánh dấu rõ ràng sự khác biệt dân được chọn và các dân tộc khác. Những người quá cẩn thận còn có khuynh hướng theo tinh hoa chủ nghĩa hoặc khai trừ, với chủ đích giữ trọn tín trung.

Rất có thể, cả hai bên đều đến gặp người ngôn sứ và ngài đưa ra một quy tắc thực tiễn từ Thiên Chúa. Điều này không mấy đúng sở thích mọi người, vì thế ngài chu đáo rào trước bài giảng với công thức ghi chú: «ĐỨC CHÚA phán như sau» và ngài lặp lại ba lần khi trình bày quyết định, mà chúng ta trích một đoạn trong bài đọc hôm nay. Thật vậy, quyết định của ngài là tán dương sự cởi mở: «Người ngoại bang gắn bó cùng ĐỨC CHÚA chớ nói rằng: "Hẳn ĐỨC CHÚA đã tách tôi ra khỏi dân Người." Người bị hoạn chớ nói: "Chính tôi đây là một cây khô." Quả vậy, ĐỨC CHÚA phán như sau: Nếu những người bị hoạn mà vẫn giữ các ngày sa-bát Ta truyền, và lựa chọn điều Ta ưa thích, cùng tuân thủ giao ước của Ta,  thì trong nhà và trong tường luỹ của Ta, Ta sẽ cho chúng được lưu danh và có đài kỷ niệm; như thế còn quý hơn con trai con gái.» (c3-5)  

Nhân đây tôi cũng xin lưu ý, ngôn sứ cũng rõ ràng đưa ra những điều kiện cho sự cởi mở: Giữ ngày Sa-bát, thực hành Giao Ước, làm những gì vừa lòng Thiên Chúa. Nhưng việc cởi mở là việc đã rồi, đánh dấu một giai đoạn rất quan trọng trong sự mặc khải tính hoàn vũ trong dự án Thiên Chúa.

Cùng một sự cởi mở, cùng những điều kiện cho những người ngoại: «Người ngoại bang nào gắn bó cùng ĐỨC CHÚA để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.» (c6-7)  

Nhấn mạnh đến việc giữ ngày Sa-bát «mà không vi phạm», sự kiện này biểu lộ nhiều điều: Trong thời gian bị lưu đày, tuân giữ ngày Sa-bát là một yếu tố quan trọng để gìn giữ đời sống cộng đồng và tính đồng nhất dân tộc Do Thái. Không nên có sự mở rộng quá độ, đánh mất tính đồng nhất ấy. Tất cả các tôn giáo đều phải chạm trán với khó khăn trong việc kết hợp hài hòa sự mở rộng ra và tuân giữ truyền thống, khoan dung và trung tín.

Vị ngôn sứ không ngừng ở đấy. Ngoài quy tắc thực tiễn, ngài triển khai một lời tiên tri về kế họach Thiên Chúa, hay nói đúng hơn, ngài đặt cái quy tắc thực tiễn cuộc sống trong viễn ảnh của kế họach Thiên Chúa: «ĐỨC CHÚA phán như sau: Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ.» (c1) Việc loan báo ơn cứu độ gần tới được tràn đầy những chương trước (Sách I-sa-i-a hai), kể cả điều kiện để lãnh nhận ơn cứu độ Thiên Chúa: «tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh» Lúc ấy các dân ngoại đã được nêu lên, I-sa-i-a gọi là «chư dân» (60, 3), nhưng hình như lúc này họ chưa là chứng nhân cho dân được Chúa chọn: «Bấy giờ vinh quang ĐỨC CHÚA sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng ĐỨC CHÚA đã tuyên phán.» (Is40, 5); và «Đức công chính của Ta đã gần kề, ơn cứu độ của Ta sắp xuất hiện, cánh tay Ta sẽ lãnh đạo muôn dân muôn nước, muôn đảo đặt hy vọng nơi Ta và mong chờ Ta ra tay hành động. Hãy ngước mắt lên trời, rồi cúi nhìn xuống đất: Này, trời sẽ tan ra như làn khói, đất sẽ rách tươm như manh áo cũ, và dân cư trên đó sẽ chết như ruồi; nhưng ơn cứu độ của Ta sẽ trường tồn vạn kỷ và đức công chính của Ta sẽ không suy suyển bao giờ. Hãy nghe Ta, hỡi những ai biết sống đời công chính, hỡi dân hằng tâm niệm luật pháp của Ta, đừng sợ chi miệng đời nhạo báng, chớ vì lời sỉ nhục của ai mà khiếp đảm. Vì chúng sẽ như chiếc áo bị mối ăn, như tấm vải len bị rận cắn; còn đức công chính của Ta sẽ trường tồn mãi mãi và ơn cứu độ của Ta sẽ vạn đại thiên thu.» (51,5-8)

Với bài đọc hôm nay, hình như có một bước tiến được vượt qua : Hễ ai tuân giữ điều chính trực, và thực hành điều công minh (c1) là được vào Nhà của Thiên Chúa: «Phúc thay người làm như thế, phúc thay phàm nhân nắm giữ điều này, người giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, chẳng hề đưa tay làm điều gian ác.» (c2)  Và Ngôn sứ kết luận: «nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.» (c7)

***

 

THÁNH VỊNH (Tv 66, 2.3.5.6 và 8)

 

Đáp: Chư dân hãy ca tụng Ngài! Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài.

 

Trước khi đọc bài Thánh vịnh Chúa nhật hôm nay, hãy tưởng tượng đến bối cảnh lúc đó. Chúng ta đang tham dự đại lễ trong Đền Giê-ru-sa-lem. Trong phần cuối nghi thức, các tư tế ban phúc lành cho cộng đoàn, và dân chúng đáp: «Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài.» (c6). Bài Thánh vịnh này được trình bày theo hai bè đối đáp nhau (các câu của các tư tế và câu đáp của cộng đoàn), giống như điệp khúc. Các câu của tư tế, lúc hướng về Thiên Chúa, lúc sang cộng đoàn. Điều này làm chúng ta bối rối một chút, nhưng rất thường gặp trong Thánh Kinh. Phụng vụ Chúa nhật hôm nay chỉ đề nghị chúng ta một phần bài Thánh vịnh, điều này làm chúng ta khó hiểu, nhưng vì bài ngắn tôi đề nghị chúng ta đọc trọn bài.

2 Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,
xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con,

3 cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài.

4 Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài!

5 Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ,
vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh,
Người cai trị muôn nước theo đường chính trực
và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này.

6 Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài.

7 Đất đã sinh ra mùa màng hoa trái:
Chúa Trời, Chúa chúng ta, đã ban phúc lộc.

8 Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta!
Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!

 

Câu chúc lành của các tư tế chép nguyên văn một đoạn rất nổi tiếng trong Sách Dân Số: «Nguyện ĐỨC CHÚA chúc lành và gìn giữ anh (em) Nguyện ĐỨC CHÚA tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh (em)! Nguyện ĐỨC CHÚA ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh (em)!» (Ds6, 24-26)  

Hẳn các bạn đã nhận ra bài này: đó là bài đọc 1 vào ngày đầu năm, mùng một tháng giêng. Đối với ngày đầu năm, ngày chúc nhau, bài này thật lý tưởng! Không có lời chúc hạnh phúc nào tốt đẹp hơn.

Nhưng rốt cục, lời chúc là như thế: những lời chúc hạnh phúc (đó là một công thức được chọn cho bài đọc ngày một tháng giêng, điều này làm cho chúng ta hiểu thêm ý nghĩa của chữ «chúc phúc»). Như các lời chúc hạnh phúc, thật vậy, các lời chúc thường dùng các động từ được chia theo thì «ước gì» như: «Chúa chúc lành cho bạn, Chúa gìn giữ bạn …». Nói tới đây, tôi nhớ đến một câu chuyện nhỏ: tôi có quen một phụ nữ, bệnh phải nằm bệnh viện. Ngày Chúa nhật, một  Linh mục đến cho cô rước Lễ, xong nghi thức, sau đó cha nói, «nguyện xin Chúa chúc lành cho cô», và không kịp suy nghĩ cũng không kịp kềm lại (nhưng ở bệnh viện thì tha thứ được) bà cười và trả lời: «nhưng cha nghĩ xem Ngài có thể làm gì khác được!» Đẹp thay, sự bộc phát của lời đáp này: người phụ nữ trẻ vừa khám phá một điều vĩ đại. Thật vậy: Chúa chỉ ban phúc lành cho chúng ta, yêu chúng ta và tràn ơn cho chúng ta mỗi giây phút. Và khi linh mục nói (dù trong đền Giê-ru-sa-lem, trong bệnh viện hay trong nhà thờ) «Nguyện xin Chúa chúc lành cho anh em», điều này không có ý nói Chúa có thể không chúc lành cho anh em! Lời ước đó, có thể nói hướng về chúng ta: có nghĩa điều mong ước là lãnh nhận lời chúc phúc của Chúa, lúc nào Ngài cũng ban cho.

Khi linh mục nói: «Chúa ở cùng anh chị em», cũng như thế: Chúa luôn ở trong chúng ta…nhưng cách nói ấy, khẳng định sự tự do. Chính chúng ta không luôn ở cùng Ngài, cũng có thể nghĩ như thế trong câu: «Nguyện Chúa tha thứ cho bạn»: Chúa không ngừng tha thứ. Phần chúng ta lãnh nhận sự tha thứ ấy và đi vào mối tương quan hoà giải như Ngài đề nghị, biết rằng lòng ao ước hạnh phúc từ Thiên Chúa là thường trực. Hẳn các bạn biết câu sau đây của tiên tri Giê-rê-mi-a: «Vì chính Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA -, kế hoạch thịnh vượng, chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng» (Gr29,11). Chúng ta biết rằng Chúa là tình yêu. Tôi có thể nói, tất cả tư tưởng của Ngài là những lời ước hạnh phúc cho chúng ta.

Còn một hướng suy nghĩ thế nào là lời chúc phúc theo Thánh Kinh? Xin trở lại bài trong sách Dân Số vừa nói, bài ấy rất giống bài thánh vịnh hôm nay: «Nguyện ĐỨC CHÚA chúc lành và gìn giữ anh (em)... » Câu đầu cũng bài ấy chép: «ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:23 "Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: » (Ds6, 22), và câu cuối chép rằng: «Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng» (Ds6, 27). Khi các tư tế chúc phúc cho It-ra-en từ Thiên Chúa, Thánh Kinh nói: «Họ tuyên xưng danh Chúa trên It-ra-en» và để trung thành hơn nữa với cách nói Kinh Thánh: «đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Chúa» Công thức: «Đặt Thánh Danh Thiên Chúa trên It-ra-en», đối với chúng ta là một định nghĩa của từ chúc phúc. Biết rằng trong Thánh Kinh tên là nhân vật, như thế: «Đặt dưới Thánh Danh Thiên Chúa», có nghĩa là đặt dưới sự hiện diện của Ngài, dưới sự chở che của Ngài, đi vào sự hiện diện của Ngài, ánh sáng của Ngài, tình yêu của Ngài. Một lần nữa xin nói lại, tất cả những điều ấy được ban cho từng giây phút, thế nhưng vẫn còn tuỳ chúng ta có chấp thuận hay không. Vì thế tất cả những công thức chúc cho tín hữu đều có dành cho lời đáp. Khi chủ tế chúc lành cuối Thánh Lễ chẳng hạn, khi đáp «Amen», đó là cách phát biểu lời chấp thuận và sự đồng ý của chúng ta.

Trong bài thánh vịnh hôm nay, lời đáp các tín hữu đó là câu điệp khúc: «Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài. !» (c6) Đây là một bài học về tính hoàn vũ! Ngay sau khi nhận được lời chúc ấy cho mình, dân được Chúa chọn, có thể truyền lại cho muôn dân, ơn họ nhận lấy cho mình. Câu sau cùng là tổng hơp hai phương diện ấy: «Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! (ngụ ý nói cho ta chính là dân Chúa chọn) Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!» (c8). Có nghĩa là dân Ít-ra-en không bao giờ quên ơn kêu gọi của mình, sứ vụ phục vụ toàn cõi nhân loại. Họ biết rằng, sự trung tín với lời chúc phúc được nhận nhưng không từ Thiên Chúa, hệ tại sự mặc khải tình yêu và lời chúc phúc Thiên Chúa cho tất cả nhân loại.

***

 

Tác giả: Marie-Noëlle Thabut                       
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions


Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân             
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng               

 


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com