Lời Chúa CN

TÌM HIỂU TÂN ƯỚC CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY B - 21/3/2021

BÀI ĐỌC 2 (Dt 5, 7-9)

 

"Người đã học vâng phục và đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời."

 

Trích thư gởi tín hữu Do-thái.

 

7 Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính.

8 Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục;

9 và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người,

 

Sách Do Thái hướng về các Ki-tô hữu gốc Do Thái. Tác giả nhằm soi sáng đức tin còn mới của họ từ nguồn cội đức tin Do Thái và sự am hiểu về Cựu Ước của họ.  Mục tiêu nhằm chứng tỏ lịch sử nhân loại đã bước qua một giai đoạn quyết định: Trước kia có Giao Ước cũ , kể từ đây có Giao Ước Mới do Giê-rê-mi-a loan báo. Giao Ước Mới này được thể hiện trong chính thân thể Đức Ki-tô. Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con Người, Thiên Chúa thật và là con Người thật, Ngài là Người-Chúa, chính là đấng kết hiệp một cách vĩnh viễn không thể tách rời Thiên Chúa và con người trong chính cương vị của Ngài. Và để linh ứng lời tiên tri Giê-rê-mi-a :

« Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới »(Gr 31 ,31)

Tác giả nhấn mạnh cùng một lúc thiên tính và nhân tính Đấng Ki-tô như một điều bình thường. Hoàn toàn có nhân tính, Ngài phải chịu chết, chịu đau khổ và lo lắng trước cái chết:

 7 « Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết »

Câu “khi còn sống kiếp phàm nhân” nói rõ Ngài là người, phải chịu chết…trước viễn ảnh của cuộc bách hại, con đường thương khó Ngài khẩn cầu Đức Chúa Cha để cứu Ngài khỏi phải chết.  Cho đến đây chúng ta còn hiểu được.

Thế nhưng tác giả lại thêm Người đã được nhậm lời. Khẳng định như thế thật đáng ngạc nhiên! Vì cuối cùng, mặc cho những lời khẩn cầu ấy Ngài cũng phải chết…Vì thế chúng ta có thể tự hỏi Ngài được nhậm lời những gì…Phải tin rằng những gì Ngài van xin không phải những điều thoạt nhiên chúng ta nghĩ. Đối với chúng ta tiếng kêu van khóc lóc của Chúa Ki-tô, lời cầu nguyện, van xin của Ngài nói lên sự lo lắng trước cái chết và muốn được thoát nạn. Chúng ta đang ở trong Vườn Ghết-sê-ma-ni, mặc dù tác giả không nói tên nhưng, lời ám chỉ khá rõ ràng.

 Giai đoạn  Vườn Ghết-sê-ma-ni được nhắc tới trong ba Phúc Âm nhất lãm với những lời văn tương tự.( thánh Gio-an không kể lại giai đoạn này, thế nhưng đoạn thánh kinh chúng ta được đọc trong Thánh Lễ chúa nhật thứ V Mùa Chay này cũng là một cách nguyện gẫm về vườn Ghết-sê-ma-ni). Cả ba Phúc Âm đều ghi nhận lòng Chúa thật buồn và lo lắng của Ngài, mà cũng cả lòng quyết tâm của Ngài. Thánh Lu-ca nói :

   « Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha » ( Lc 22,42) Nói rằng Chúa Giê-su muốn thoát khỏi sự chết, là điều rõ ràng vậy rồi, thế nhưng lời cầu nguyện của Ngài không ngừng ở đó. Lời cầu nguyện của Chúa thật ra là  « làm theo ý Cha… đừng làm theo ý con ». Trong lời cầu nguyện Chúa Ki-tô xem ý của Chúa Cha trên ý riêng của mình.  Đây cũng là một bài học tuyệt vời cho chúng ta.

Các nhà tâm lý học phân tích cách sống đạo của chúng ta làm ba giai đoạn phát triển về mặt thiêng liêng. Giai đoạn đầu tiên từ tuổi thơ ấu , chỉ biết có những khát vọng của mình. Đứa bé dậm chân kêu « Con muốn như thế này ». Giai đoạn thứ hai, vì ý thức được sự bất lực của chúng ta để đạt tới những điều chúng ta muốn, thì cầu nguyện xin Chúa giúp. Và lời cầu nguyện sẽ trở thành như thế này « Xin cho ước muốn của con được chấp nhận với sự trợ giúp của Chúa » (Hình như vài lời cầu nguyện của chúng ta cũng như thế ấy). Giai đoạn thứ ba, giai đoạn của đức tin, tức là tuyệt đối tin tưởng vào dự án của Thiên Chúa « làm theo ý Cha… đừng làm theo ý con ».

Chúa Ki-tô có lòng tin hoàn toàn như thế vào Đức Chúa Cha. Ngài  « có lòng tôn kính » . Trong Thánh Kinh khi nói tới lòng tôn kính hay vâng phục tức là nói đến lòng hoàn toàn cậy trông. Vì Ngài biết rằng ý của Thiên Chúa lúc nào cũng tốt lành. Trong lời kinh mà Ngài dạy chúng ta, Ngài mời gọi chúng ta lập lại lời Ngài « Xin nước Cha trị đến » là để dạy chúng ta ao ước ý Chúa được thực hiện vì Chúa không có dự án nào khác hơn là đem đến hạnh phúc cho chúng ta. Như thánh Phao-lô viết trong thư thứ nhất cho Ti-mô tê :

 « Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý » ( 1Tm 2,4). Lời cầu nguyện của Chúa Ki-tô được nhậm lời hai lần : Thế gian được cứu độ và Chúa được phục sinh. Câu :Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết  là có nghĩa đó, còn câu « khi chính bản thân đã tới mức thập toàn », thì có thể thay chữ tới mức thập toàn bằng chữ Phục sinh :«  khi chính bản thân đã tới mức phục sinh ».

Tác giả cũng không do dự nói rằng Chúa Giê-su, như mọi người phải trải qua một thời gian học tập : «  Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục ». Chữ học dùng ở đây có nghĩa là, như mọi người Ngài có một đoạn đường phải trải qua, đó là con đường đau khổ và lo lắng trước cái chết. Mà chính ở đây, con người có hai thái độ, sợ Chúa hoặc trông cậy nơi Chúa. Và chính vì Ngài không bao giờ từ bỏ trông cậy vào Thiên Chúa của sự sống, con đường ấy dẫn Ngài đến Phục sinh.

Tới đây chúng ta không thể không nghĩ tới giai đoạn ở Xê-da-rê. Khi Chúa Giê-su khởi đầu tiên báo cho các tông đồ những gì Ngài phải trải qua, Phê-rô bắt đầu phản kháng :

« Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.22 Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! "23 Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: "Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người »( Mt 16, 21-23)

Ở trong vườn Ghết-sê-ma-ni, Chúa Giê-su hoàn toàn xem ý Thiên Chúa trên hết ý của chính mình. Bài đọc tiếp tục rằng :  Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người. Cứu độ ở đây là  « biết »  mặt thật của Thiên Chúa, tình yêu Ngài làm cho chúng ta được sống. « vâng lời »Chúa Ki-tô, tức là đến phiên chúng ta, trên con đường đau khổ, tin cậy vào Ngài, theo gương của Ngài, và như thế là tin tưởng vào thánh ý Đức Chúa Cha. Chúa Giê-su cho các môn đệ của Ngài bí quyết :

« Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ » ( Lc 22,46) Đây không phải loại tính toán như thể nói « Nếu cầu nguyện tốt, Chúa tránh cho bị cám dỗ ! » Nhưng chính thực tế cầu nguyện là thế : Cầu nguyện tức là ở cạnh Chúa, tin tưởng nơi Ngài, đó là những gì trái hẳn với bị cám dỗ, thứ cám dỗ mà Chúa nói đến : Cám dỗ nghi ngờ Chúa muốn điều dữ cho chúng ta và khiến chúng ta phẫn nộ. Theo Chúa Ki-tô, trước hết có lẽ là dám nói với Chúa những điều ta ao ước và thứ hai là tin tưởng vào Ngài để nói ngay xin : « làm theo ý Cha… đừng làm theo ý con ».

Tái Bút : Chữ « Thập toàn » ở đây có một ý nghĩa khác đó là « thánh hiến » của vị thượng tế ; mục đích chính trong thư Do Thái là để chứng minh Đức Ki-tô thật là vị thượng tế của Giao Ước Mới.

***

 

PHÚC ÂM (Ga 12,20-33)

 

"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt".

 

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

 

20 Trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp.

21 Họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng: "Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su."

22 Ông Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su.

23 Đức Giê-su trả lời: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!

24 Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.

25 Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.

26 Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy."

27 "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.

28 Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha." Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: "Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa! "

29 Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: "Đó là tiếng sấm! " Người khác lại bảo: "Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy! "

30 Đức Giê-su đáp: "Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người.

31 Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!

32 Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi."

33 Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.

Chúng ta đang ở trong những ngày gần lễ Vượt qua tại Giê-ru-sa-lem. Điều này đáng cho các cơ quan có thẩm quyền quan tâm thật :  Mấy hôm nay Đấng Giê-su đã tiến vào thành giữa những tiếng tung hô chiến thắng. Dân chúng reo vang « Hoan hô- Hoan hô » như trong các đại lễ để reo mừng lời hứa đấng Mê-si-a. Đúng thế, đám đông xem Ngài là đấng Mê-si-a. Thánh Gio-an kể lại là các người Pha-ri-sêu nói với nhau :

« Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết! » ( Ga 12,19)

Và dường như để chứng minh điều đó, mấy người Hy-lạp xuất hiện lúc ấy và nói với các môn đệ Ngài « "Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su." ; không phải để nhìn thấy mà gặp và nói chuyện với Ngài.

Trong bản gốc, họ nói đi « lên » Giê-ru-sa-lem, vì thành phố có độ cao là 800m, họ đến trong chuyến hành hương và thờ phượng Thiên Chúa nhân dịp lễ Vượt qua, thừa dịp đến gặp đấng Giê-su. Họ không ý thức rằng họ rất có lý khi quyết định  đến gặp Đức Giê-su, là một cách tốt nhất để « thờ phượng Thiên Chúa ». Nhưng dĩ nhiên họ chưa biết thế : Chúa Giê-su nói khéo điều đó. Khi các môn đệ đến báo các người Hy-lạp muốn gặp, Ngài trả lời rằng :

« Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! », có nghĩa là được mặc khải là Thiên Chúa. Chữ « Tôn Vinh » trở đi trở lại nhiều lần trong bài. Điều này khó hiểu đối với chúng ta vì trong cách nói thông thường Tôn Vinh khó đi đôi với Thiên Chúa. Đối với chúng ta, vinh quang là sự quyến rũ, hào quang của một minh tinh, tiếng tăm. Trong Thánh Kinh, vinh quang của Chúa là sự hiện diện của Ngài. Sự Hiện Diện rạng rỡ  như Bụi Gai cháy rực, trong ấy Chúa mặc khải cho Mô-sê. ( Xh3). Như thế « Tôn vinh » có nghĩa là mặc khải sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi Chúa Giê-su nói « Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha »,chúng ta có thể hiểu như : « Xin Cha mặc khải, Cha là ai, là Thiên Chúa Tình Yêu », như một Người Cha trìu mến đã lập một Giao Ước Tình Yêu với nhân loại.

Chung cục là thế ấy, là cứu độ, là hạnh phúc của con người. Chúa dạy chúng ta điều đầu tiên phải xin trong cầu nguyện là « Danh Cha cả sáng, nuớc Cha trị đến, ý Cha thể được hiện », hay nói cách khác hơn, « xin cho Cha được nhìn nhận là Thiên Chúa tình yêu và nước tình yêu của Cha được trị đến… » Chúa Giê-su thể hiện toàn vẹn những điều ấy. Vài hôm sau, để trả lời hỏi cung của Phi-la-tô, Chúa nói:

« Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi » (Ga 18,37)

Không hiểu vì sao chúng ta khó nghe sự thật, mặc dù nó tuyệt vời và giản dị như thế ? Vấn đề lớn nhất của chúng ta là chúng ta không thấu hiểu Thiên Chúa thật. Chúng ta có rất nhiều khái niệm về Ngài, nhưng là những khái niệm sai lầm!  Còn Chúa Giê-su, Ngài hiểu biết về Chúa Cha. Và Ngài ao ước rằng chúng ta cũng hiểu biết về Chúa Cha như Ngài chứ không như chúng ta tưởng tượng. Ý thức rõ về Thiên Chúa, tức là biết như Thiên Chúa thật, tức là Thiên Chúa tình yêu, giàu lòng thương xót. Để mặc khải cho đến cùng sự thật đó, Chúa Giê-su chấp nhận trải qua cuộc Thương Khó và bị đóng đinh trên thập giá. Trong giai đoạn sống những giây phút cuối cùng ấy, bài Phúc Âm chúng ta đọc hôm nay nói rõ tâm trạng Chúa Giê-su: nỗi lo lắng, lòng cậy trông, và xác tín về chiến thắng cuối cùng.

Lo lắng, Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! !... Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này,. Chúng ta thấy ở đây nơi thánh Gio-an cùng tiếng vang từ vườn Ghết-sê-ma-ni : cũng lời thú nhận đau khổ của Đức Ki-tô, lòng muốn thoát sự chết như trong Lu-ca  ( Lc 22-42) « "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha » Ở đây thánh Gio-an chép « Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến ». và cũng một niềm xác tín « nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác » Trong khoảnh khắc cuối cùng Ngài xao xuyến bắt đầu cuộc Thương Khó trong « tiếng kêu van khóc lóc » ( Dt 5, 7b), nhưng Chúa vẫn nói « Ý Cha thể hiện »  một cách cậy trông vì Ngài biết rằng từ cõi chết đó sẽ xuất hiện sự sống cho mọi người.

Và sau cùng là sự chiến thắng, « Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi." »  … « Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! » Hai câu có vẻ khác nhau nhưng đều ám chỉ sự chiến thắng :  Sự chiến thắng ấy là sự thật, sự thật ấy là sự mặc khải của Thiên Chúa.

Thủ lãnh thế gian, chính ra là kẻ từ Sáng Thế đã nhồi vào đầu chúng ta toàn những ý nghĩ sai lầm về Thiên Chúa. Trái ngược lại, khi ngẫm nhìn Đức Giê-su trên thánh giá, Ngài tỏ cho chúng ta thế nào là Tình Yêu Ngài dành cho nhân loại, chúng ta chỉ có thể được thu hút về Ngài. Đây là bằng chứng của Tình Yêu của Thiên Chúa : Người Con chấp nhận chịu chết vì tay loài người, Người Cha nhậm lời van xin « Xin Cha tha thứ cho họ … ». Kể từ đây nhìn lên thánh giá, chúng ta không thấy đó là khí cụ của lòng thù hận và đau đớn mà một khí cụ  tình yêu đã chiến thắng. Đến để làm chứng cho sự thật, Giờ đây đã đến, sứ vụ đã hoàn tất.

Khi Chúa Giê-su cầu nguyện Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha. Thì thánh Gio-an nói cho chúng ta có tiếng vang từ trời  "Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!". Chúng ta đang ở đoạn cuối của Tin Mừng theo thánh Gio-an, tất cả sự mặc khải về Thiên Chúa trong Cựu Ước đã giúp khám phá ra dung nhan thật của Thiên Chúa, nay tất cả đời sống của Chúa Giê-su thể hiện trên khuôn mặt và hành động của một con Người sự thật về tình yêu dịu dàng của Thiên Chúa. Tất cả tính cách sư phạm của Thánh Kinh được tóm gọn trong câu «"Ta đã tôn vinh Danh Ta » tức là ta đã mặc khải về ta;  « Ta sẽ còn tôn vinh nữa! » có nghĩa là từ đây « đã đến giờ » khi nhìn lên thánh giá sẽ thấy Tình yêu của Chúa Ba Ngôi đi đến tận đâu. Tất cả tính cách sư phạm của sự mặc khải ấy chỉ có một mục đích duy nhất : Nhân loại hãy đón nhận Tin Mừng Tình Yêu của Thiên Chúa.  « Đức Giê-su đáp: Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người »

***

 

Tác giả: Marie-Noëlle Thabut                       
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions


Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân              
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng                


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com