Lời Chúa CN

Tìm hiểu Kinh Thánh Chúa nhật 02 Mùa Thường niên năm A - Marie-Noëlle Thabut

BÀI ĐỌC 1 CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN - A (Is 49, 3.5-6)

 

"Ta đặt ngươi như ánh sáng các dân tộc, để ngươi nên ơn cứu độ của Ta"

Trích sách Tiên tri I-sa-i-a

 

3 Người đã phán cùng tôi: "Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta.
Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang."

5 Giờ đây ĐỨC CHÚA lại lên tiếng.
Người là Đấng nhào nặn ra tôi
từ khi tôi còn trong lòng mẹ
để tôi trở thành người tôi trung,
đem nhà Gia-cóp về cho Người
và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người.
Thế nên tôi được ĐỨC CHÚA trân trọng,
và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.

6 Người phán: "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta
để tái lập các chi tộc Gia-cóp,
để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít.
Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất."

 

Ngày lễ Chúa Ki-tô chịu phép rửa, chúng ta đã đọc Bài Ca Người Tôi Trung thứ nhất trong bốn bài (Is 42). Đây là một nhóm gồm bốn bài, hình như một nhóm đặc biệt được trình bày trong sách thứ hai Tiên tri I-sa-i-a. Các bài được mang tên «Bài Ca Người Tôi Trung», vì những bài này, mỗi bài miêu tả một khía cạnh khác nhau chân dung «Người Tôi Trung của Thiên Chúa».

Trong bài ca thứ nhất chúng ta đã nhận xét ba điểm quan trọng: Người Tôi Trung được Thiên Chúa chọn để thực hiện một sứ vụ đặc biệt. Sứ vụ ấy là một sự phán xét, hiểu theo nghĩa cứu độ, nâng lên những đau khổ về mọi mặt. Sau cùng, sứ vụ ấy gồm cả nhân loại, tượng trưng qua từ ngữ tuyệt vời «Hải đảo xa xôi». Tôi gọi đó là tính hoàn vũ của kế hoạch Thiên Chúa.

Trong bài Ca Người Tôi Trung thứ nhất, không nói rõ ai là người tôi trung; phải chăng bài miêu tả một nhân vật có thật, hay là chân dung lý tưởng của người tôi trung Thiên Chúa? Bài ca thứ hai hôm nay, chương 49 sách I-sa-i-a cho chúng ta hiểu xa hơn.

Nhưng, trước khi trả lời câu hỏi ấy, xin đừng quên, mọi sách thánh đều mặc khải hoặc về Thiên Chúa hoặc kế hoạch của Ngài; và đây thật rõ ràng: những chữ sau cùng của bài chúng ta nghe hôm nay: «đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất». Một lần nữa, Thánh Kinh cho chúng ta biết kế hoạch của Thiên Chúa là kế hoạch cứu độ, đem lại hạnh phúc bao gồm cả loài người: «Ta đến tận cùng cõi đất».

Ở đây, sứ vụ Người Tôi Trung được miêu tả một cách đáng ngạc nhiên: “Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang”, có nghĩa là: «Nơi con, người tôi trung của Ta, Ta được biểu hiện, được nhìn nhận và mặc khải». Thánh Kinh do nhóm Liên Tôn chuyển ngữ chép rằng: «Nơi con biểu lộ vinh quang của Ta». Câu đơn sơ này nói lên một điều tuyệt vời; Vinh Quang Thiên Chúa, tức là ánh sáng chiếu từ sự hiện diện của Ngài: «Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang», có nghĩa là một người hay một dân tộc có thể mang lấy vinh quang Thiên Chúa và chiếu rọi ánh sáng Thiên Chúa. Đây cũng là một khám phá lớn lao của dân tộc Ít-ra-en: có lẽ, chúng ta không lường được những lời lẽ này táo bạo như thế nào! Một Thiên Chúa toàn năng, một Thiên Chúa Vua các vua, một Thiên Chúa «chí thánh» như lời ngôn sứ I-sa-i-a, lại là một Thiên Chúa thật gần gũi; chúng ta có dịp khám phá hai phương diện của đức tin dân tộc Ít-ra-en: một vực sâu vô tận chia cách Thiên Chúa và sự nhỏ bé của chúng ta, Thiên Chúa là Đấng Khác Biệt từ muôn thuở. Thế nhưng, vực sâu không ai có thể vượt qua bằng nỗ lực cá nhân mình, nhưng Ngài lại băng qua được; đến gần chúng ta, gần đến nổi «nghe» được tiếng kêu than thống khổ của dân Ngài, và Ngài can thiệp để giải thoát họ. Nhưng trong câu: «Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang», còn có hàm ý khác: Chúa gần gũi chúng ta đến nỗi, chúng ta mang lấy vinh quang của Ngài, để rồi, đến phiên chúng ta mang lấy ánh sáng của Ngài.

Câu sau cùng của đoạn này nói lên điều ấy: «Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất». Hẳn các bạn còn nhớ, sách I-sa-i-a (chương 60) chúng ta đã đọc trong dịp lễ Hiển Linh, Ngài dùng chính đề tài này: Giê-ru-sa-lem mang lấy ánh sáng Thiên Chúa để dẫn dắt muôn dân; và chúng ta nhận xét, đây cũng là ánh sáng Thiên Chúa. Ở đây, ngôn sứ I-sa-i-a dùng một biểu ngữ tượng tự: «Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi». Tất cả sức mạnh, tất cả ánh sáng, không đến từ chúng ta mà từ Thiên Chúa, Ngài ngự trong chúng ta.

Còn một điều đáng ngạc nhiên nữa trong bài này hôm nay, và chúng ta cũng nhận ra trong Bài Ca Thứ Nhất Người Tôi Trung, Chúa nhật vừa qua: Ánh sáng của Chúa cho muôn dân, là khí cụ của Thiên Chúa: «để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất», đó chính xác là ơn gọi của Đấng Mê-si-a, từ muôn thuở. Thế nhưng, ở đây không phải Đấng Mê-si-a-Vua mà là Mê-si-a Tôi Trung, hai điều không có gì giống nhau. Với bốn Bài Ca Người Tôi Trung của sách I-sa-i-a, việc chờ đợi Đấng Thiên Sai có một bộ mặt khác.

Còn một vấn đề khó: người tôi trung bí mật này,một nhân vật cá thể hay tập thể? Ngay từ câu đầu, nhân vật ấy là Ít-ra-en: «Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta. Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang». Chúng ta hẳn còn nhớ, Ít-ra-en là tên lóng của Gia-cóp, con của I-sa-ắc và Rê-béc-ca, em sinh đôi với Ê-xau, tổ tiên của dân cùng tên; nhất là, đây cũng là tên của dân Chúa chọn. Người Tôi Trung là nhân vật tập thể, đây là dân Ít-ra-en được trao phó sứ mạng phục vụ thế giới. Kế hoạch Thiên Chúa là kế hoạch hoàn vũ,  để chu toàn kế hoạch ấy, Thiên Chúa chọn một dân tộc đặc biệt, đó là Ít-ra-en. «Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta. Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang.»

Điều khó hiểu là đâu? Từ vài hàng dưới đoạn chúng ta đọc: «Người là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Gia-cóp về cho Người» (Is 49, 5). Nếu Người Tôi Trung là Ít-ra-en làm sao có thể qui tụ Ít-ra-en? Nhiều người nghĩ rằng, đây là nhóm nhỏ còn sót lại những người đức tin không bị chao đảo, mặc dù sau nhiều năm lưu đày và đi tù. Chúa giao sứ vụ cho những người ấy, để nâng đỡ tinh thần anh em, để qui tụ họ lại đưa về xứ, hay nói như I-sa-i-a: «trở thành người tôi trung, đem nhà Gia-cóp về cho Người »… Nhưng sự phục hưng dân tộc này nằm trong dự án Thiên Chúa, như màn đầu của sự cứu độ nhân loại. Chính công trình vô vọng, nâng đỡ cả dân tộc do một nhóm người, sau này sẽ là kẻ minh chứng cho Chúa Ít-ra-en: «Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất»

***

 

THÁNH VỊNH CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN - A (Tv 39, 2.4ab.7-8.10)

 

"Lạy Chúa, này đây con đến thực thi ý Chúa."

 

2 Tôi đã hết lòng trông đợi CHÚA,
Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu.

3 Người kéo tôi ra khỏi hố diệt vong,
khỏi vũng lầy nhơ nhớp,
đặt chân tôi đứng trên tảng đá,
làm cho tôi bước đi vững vàng.

Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới,
bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta.
Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ
và tin tưởng vào CHÚA.

5 Phúc thay người đặt tin tưởng nơi CHÚA,
chẳng vào hùa với bọn kiêu căng
và những kẻ theo đường gian ác.

Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ,
những kỳ công Ngài đã thực hiện
và những điều Ngài dự định cho chúng con:
thật là nhiều vô kể!
Không một ai sánh được như Ngài.
Dầu con muốn loan đi kể lại,
nhưng quá nhiều, đếm nổi làm sao!

7 Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật,
nhưng đã mở tai con;
lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi,

8 con liền thưa: "Này con xin đến!
Trong sách có lời chép về con

9 rằng: con thích làm theo thánh ý,
và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con."

10 Đức công chính của Ngài,
con loan truyền giữa lòng đại hội;

lạy CHÚA, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh.

 

«Tôi đã hết lòng trông đợi CHÚA, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu». Như thường lệ, trong Thánh vịnh, khi một nhân vật cá nhân nói, chúng ta biết đó, thật ra là một nhân vật tập thể, là dân tộc Ít-ra-en hát lên lời ca tạ ơn. Họ đã trải qua những thử thách khủng khiếp, và Chúa đã giải thoát họ.

Bài Thánh Vịnh 30 (40) là một Thánh vịnh tạ ơn. Bài được sáng tác với một công dụng rõ ràng trong phụng vụ: đó là bài thánh ca lúc dâng của lễ (xin đừng quên tế lễ thú vật được cử hành tại Giê-ru-sa-lem cho đến khi thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá hoàn toàn, vào năm 70 sau CN). Ngay trong lúc dâng lễ, bài hát loan báo trong tương lai, việc tế lễ sẽ bị huỷ bỏ trong Giao Ước Mới: «Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi». Các tiên tri phải dùng đến cả một phương pháp sư phạm, để làm tiến hóa việc thực hành các nghi thức tế lễ. Tất cả Thánh Kinh, là một trường học suốt thời gian dài dạy thực hành, và với bài thánh vịnh 39 này, chúng ta đang trong giai đoạn cuối cùng của sự biến đổi quan hệ Ít-ra-en với Thiên Chúa.

Tôi xin trở lại việc dâng của lễ ở Ít-ra-en: điều này phát triển song song với sự hiểu biết về Thiên Chúa. Thật là lô-gíc: «hiến tế» (Sacrum facere theo tiếng La tinh) có nghĩa là «làm điều thần thiêng», tiếp xúc, hay đúng hơn kết hiệp với Chúa. Tất cả, dĩ nhiên tuỳ cách hiểu Thiên Chúa là như thế nào. Vì thế, dần dần, một khi khám phá ra Thiên Chúa như thế nào, thì việc tế lễ cũng thay đổi theo chiều hướng ấy.

Tôi bắt đầu từ đầu. Điều thứ nhất cần nhớ: không phải Ít-ra-en đã tạo ra việc tế lễ hay hiến tế (có trước xa nơi các dân tộc khác ở Trung đông, lúc dân tộc Ít-ra-en còn chưa xứng được gọi là một dân tộc). Nhận xét thứ hai, khi chúng ta tìm hiểu về tế lễ ở Ít-ra-en: việc này luôn luôn có suốt lịch sử Thánh Kinh. Có nhiều loại lễ tế, nhưng tất cả đều là một phương tiện để tiếp xúc với Thiên Chúa. Nhận xét thứ ba: các cuộc tế lễ của dân Chúa chọn giống với các dân tộc lân cận… Thật vậy, nhưng có một điều khác biệt, một khác biệt thật to lớn: đặc thù nơi Ít-ra-en, lễ toàn thiêu người, bị nghiêm cấm. Xưa kia thì có; thật vậy, dù có rất ít, nhưng không thể chối cãi là không có tế lễ người tại Ít-ra-en. Điều này không chứng minh là được Chúa cho phép và tán thành! Trái lại, lúc nào cũng là một lập trường kiên định trong Thánh Kinh: dù bất cứ thời nào, lễ toàn thiêu người được xem như một điều kinh tởm, Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, thay mặt Chúa nói: «Ta không bao giờ có ý tưởng đó» và trong nhiều đoạn ngài nói: «Đó là điều Ta đã không truyền dạy, cũng chẳng bao giờ nghĩ tới» (Gm7, 31; 19, 6; 32, 35). Và câu truyện bất hủ cuộc tế lễ của Áp-ra-ham - dân Do Thái gọi là «Trói I-sa-ắc» - được đọc chính xác là để minh chứng rằng, từ đầu Giao Ước Thiên Chúa với dân Ngài chọn, các cuộc tế lễ người bị nghiêm cấm. Chính vì thế, Áp-ra-ham được mặc khải, tế lễ không phải là giết! Ông đã hiến tế con mình nhưng ông không có giết nó.

Nghĩ cho cùng điều này thật chi lý! Thiên Chúa là Chúa sự sống: không thể nào có thể tưởng tượng, muốn đến với Ngài phải đem lại sự chết! Cấm tế lễ người là điều chính yếu, được nhấn mạnh trong đạo của Giao Ước. Chỉ có tế lễ súc vật được tiếp tục; nhưng dần dần, qua thời gian có một sự biến đổi thật sự, có thể nói, có một sự hoán cải về tế lễ. Có hai điểm về sự hoán cải: trước hết về ý nghĩa sau đó là lễ vật hiến tế.

1/ Về ý nghĩa của hiến tế. Trong Thánh Kinh, một khi dần dần được mặc khải về Thiên Chúa, việc tế lễ cũng được tiến triển; có thể nói: Hãy nói cho tôi bạn hiến tế như thế nào, tôi sẽ nói Chúa của bạn ra sao. Chúa chúng ta có chăng là một Chúa phải thuần hóa mới được ơn từ Ngài, phải làm gì đó để xứng đáng? Một Chúa nóng giận cần ta làm cho hạ cơn giận? Một Thiên Chúa đòi hỏi có người chết?... Thế thì, các cuộc tế lễ của ta phải làm trong chiều hướng ấy, đó là những trò ma thuật, đại loại như để mua chuộc Thiên Chúa. Hay là, Chúa chúng ta là Đấng yêu thương chúng ta trước tiên; một Thiên Chúa chỉ có một kế hoạch, là kế hoạch nhân từ, ân sủng của Ngài đã ban trước cho chúng ta; bởi vì, Ngài chỉ là Ân sủng, Thiên Chúa Tình Yêu và là Sự Sống?... Và như thế, của lễ chúng ta cũng sẽ khác hẳn, đó là những cử chỉ yêu thương và lòng biết ơn. Những nghi thức, không còn phải là những cử chỉ ma thuật, mà là dấu chỉ của Giao Ước với Thiên Chúa.

Tất cả Thánh Kinh,  lịch sử của hành trình học hỏi thật chậm, từ hình ảnh đầu tiên của Thiên Chúa bước qua hình ảnh thứ hai của Ngài. Chính chúng ta mới cần thuần phục, cần khám phá ra tất cả là quà tặng nhưng không; cần biết nói cám ơn (Thánh Kinh gọi là lễ tế bằng môi). Tất cả phương pháp sư phạm của Thánh Kinh, nhằm cho chúng ta bỏ đi cái lô-gíc «có qua có lại», tính toán, phải xứng đáng, để bước qua cái lô-gíc của ân huệ, của quà nhưng không. Và bài học ấy không bao giờ chấm dứt.

2/ Sự hoán cải ấy còn liên quan đến của tế lễ: các ngôn sứ có một vai trò quan trọng trong hành trình học hỏi thật chậm này của dân Chúa chọn. Các ngài mặc khải cho họ dần dần của lễ Chúa thật sự muốn: thực hiện các cuộc tế lễ theo tinh thần của «sacrum facere» (làm điều thiêng liêng), thật là tốt, nhưng với điều kiện đừng nhầm lẫn những gì Chúa chờ đợi nơi ta! Có thể giống như các ngôn sứ nói với chúng ta: «Ngươi muốn vào mối tương quan với Thiên Chúa…? Tốt đấy!... với điều kiện đừng lầm Chúa nào khác!»

Có lẽ, một câu của ngôn sứ Hô-sê, (thế kỷ thứ VIII) tóm lược hoàn hảo cách rao giảng của các Tiên Tri: «Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ». (Hs 6, 6) Mọi người dần dần khám phá ra hy lễ thật sự, làm điều thiêng liêng, không phải là giết đi mà làm cho sống lại. Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống: giết chết đi, không thể nào là phương pháp tốt nhất để đến gần Ngài! Làm cho anh em ta sống, là cách tốt nhất để đến gần Ngài.

Giai đoạn cuối cùng phương pháp sư phạm ấy của các tiên tri, giới thiệu cho chúng ta thế nào là hy lễ lý tưởng: Đó là phục vụ anh em ta. Chúng ta tìm thấy quan niệm này trong cả bốn bài ca người tôi trung, trong sách thứ hai của I-sa-i-a. Lý tưởng của Người Tôi Trung là hy lễ lý tưởng, «một mạng sống cho đi để đem lại sự sống» .

Bài Thánh Vịnh 39 tóm tắt tuyệt vời sự mặc khải của Thánh Kinh về hy lễ: «7 Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con». Từ bình minh của loài người, Thiên Chúa đã «mở tai» con người, để bắt đầu cuộc đối thoại tình yêu; bài Thánh vịnh 39 phản ánh hành trình dài của dân Chúa chọn, tập sự đi vào cuộc đối thoại ấy. Trong Giao Ước Si-nai, các hy lễ súc vật, tượng trưng cho lòng quyết tâm của dân chúng thuộc về Thiên Chúa; trong Giao Ước Mới, sự lệ thuộc ấy hoàn toàn: cuộc đối thoại được thực hiện, hy lễ và lễ vật đều thiêng liêng, như sau này Thánh Phao-lô nói: «Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế»., (Dt 10, 5) Lúc bấy giờ, bài hát mới vang lên từ lòng người: «10 Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội»  

***

 

BÀI ĐỌC 2 CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN - A (1Cr 1, 1-3)

 

"Nguyện cho anh em được ân sủng và bình an của Thiên Chúa, Cha chúng ta."

Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phao-lô Tông Đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô

 

1 Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi,

2 kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Ki-tô Giê-su, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của họ và của chúng ta.

3 Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.

 

Cô-rin-tô là một đô thị trù phú gồm các hạng người và nghèo nàn cũng đủ loại: là một con đường qua lại bắt buộc giữa hai hải cảng, một bên là biển Adriatic, một bên là biển Ê-gê. Con kênh Cô-rin-tô mà ngày nay chúng ta biết, lúc ấy chưa được đào, là con đường lát đá nối liền hai hải cảng, chuyển hàng từ các tàu thuỷ,  bên này sang bên kia bằng sức người và những xe đẩy. Lối đi này rất được thông dụng, để khỏi phải đánh một vòng lớn bằng đường thủy.

Điều kiện ưu đãi này, biến Cô-rin-tô thành một thành phố qua lại thường xuyên; từ đó, là nơi giao lưu nhiều thứ - nhiều chủng tộc, nhiều nguồn tư tưởng, nhiều tôn giáo - tại nơi đó, Trung Đông và Tây Phương gặp gỡ nhau. Ở đấy có mọi thứ, muốn tìm kiếm gì trong mọi lãnh vực đều có. Ngạn ngữ: «sống như người Cô-rin-tô» rất thông dụng, nhưng không phải là một lời khen đâu: có nghĩa là số xa hoa và trụy lạc. Thành phố này cũng có đặc điểm tương phản về xã hội: trong lúc những nhà tài phiệt, thương gia, bận rộn thương thuyết hợp đồng với nhau, thì những công nhân bến cảng và người nô lệ vất vả, lam lũ làm việc. Của cải giàu có phơi bày trước sự khốn cùng của kẻ khác; bài dụ ngôn người giàu có và ông La-da-rô nghèo là một bối cảnh rất thích hợp nơi đây.  

Thánh Phao-lô biết rõ thành này vì đã ở đó 18 tháng, từ cuối năm 50 đến năm 52. Nhờ ngài rao giảng, dần dần một cộng đồng Ki-tô được tập hợp, tạo nên một tương phản với dân thành Cô-rin-tô. Dần dần, qua các bài đọc ngày Chúa nhật, chúng ta sẽ khám phá nhiều hơn.

Không phải lần đầu, Thánh Phao-lô viết cho dân thành Cô-rin-tô: hình như chúng ta biết, có một dạo, ngài cũng cầm bút khi ngài biết được những nỗi khó khăn của cộng đồng Cô-rin-tô. Kỳ này, ngài viết để trả lời những câu hỏi rõ ràng, đặt ra cho ngài; chúng ta đang ở vào năm 55 hay 56. Dù sao đi nữa, đây là lá thư «thứ nhất» của Thánh Phao-lô đối với chúng ta được giữ lại.

Những hàng chữ đầu này,  đưa ngay chúng ta vào bối cảnh toàn thư của ngài cho cộng đồng Ki-tô; Ngài là người được Chúa kêu gọi, nói cho những người được gọi: «1 Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ …2 kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Ki-tô Giê-su». Thánh Phao-lô là Tông đồ Chúa Giê-su Ki-tô, không vì tự ý, mà rõ ràng do Chúa gọi ngài vào sứ vụ này. Uy quyền ngài có là từ đó; và ngài nói cho Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô. Riêng chữ Hội Thánh cũng nói lên đặc tính ơn gọi từ Thiên Chúa: theo tiếng Hy-lạp chữ «Ecclesia» (Hội thánh) cùng gốc với động từ «kêu gọi» (Kalein). Vì thấy chữ Ecclesia hình như không đủ rõ, Thánh Phao-lô nói chính xác hơn: «Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Ki-tô Giê-su, được kêu gọi làm dân thánh». Thành ngữ «Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô.» (như ở Giê-ru-sa-lem hay Paris) trở nên thông dụng. Bất cứ ở đâu, chúng ta cũng được gọi là những người «được Thiên Chúa gọi».

Đồng thời, Thánh Phao-lô nhắc nhở cộng đồng Cô-rin-tô liên kết với những cộng đồng Ki-tô khác: «2 kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh …, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của họ và của chúng ta». Có điều thú vị, Thánh Phao-lô dùng chữ Hội Thánh, để chỉ cộng đồng địa phương cùng với toàn thể Giáo Hội. Mỗi cộng đồng riêng biệt, vì được Thiên Chúa gọi; là trọn vẹn chứng nhân cho tình yêu hoàn vũ của Chúa Cha: một giáo hội địa phương không chỉ vỏn vẹn thu nhỏ về địa lý hay xã hội, mà luôn có sứ vụ hoàn vũ; đây là cách để chúng ta nhớ khi đọc «lời nguyện giáo dân».

Tôi xin trở lại câu: «những người đã được hiến thánh trong Đức Ki-tô Giê-su, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta». Kêu cầu danh Chúađây là điểm chung của mọi Ki-tô hữu khắp thế giới và qua toàn lịch sử. Kêu cầu danh Chúa, tức là nhìn nhận Thiên Chúa. hơn nữa, khi Thánh Phao-lô gọi Chúa Giê-su là Chúa, thì điều này cũng như thế; vì thời ấy, danh nghĩa Chúa chỉ dành cho Thiên Chúa. Nhân dịp này, tôi tự nhủ, phải chi lời chú này có thể làm phần mở đầu .

Tuần lễ cầu nguyện sự hiệp nhất cho tất cả các Ki-tô hữu; những người trên khắp địa cầu qua những khác biệt ý kiến với nhau, nhưng vẫn tiếp tục «kêu cầu danh Chúa …, Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của họ và của chúng ta.»

Trọng điểm chung của mọi Ki-tô hữu là Chúa Giê-su Ki-tô, thật sự trung tâm của thế giới và lịch sử. Ngược lại, thiết tưởng, nếu Chúa Giê-su Ki-tô không phải là trung tâm của thế giới và lịch sử, thì phải hỏi lại về nội dung đức tin của chúng ta. Hẳn các bạn cũng chú ý, chỉ trong vài hàng, Thánh Phao-lô nhắc đến nhiều lần tên Đức Ki-tô: «1 Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi, 2 kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Ki-tô Giê-su, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của họ và của chúng ta». Nếu biết rằng, trong cộng đồng này có nhiều cuộc tranh cãi liên miên, việc Thánh Phao-lô nhấn mạnh đến chức danh cao trọng của những Ki-tô hữu mới này (Thánh nhân không phải không biết những khuyết điểm của họ), là điều ngài cố ý: dường như nhắc lại phẩm cách Ki-tô hữu, tránh cho họ rơi vào những thái độ bất xứng với bí tích rửa tội. Thánh Phao-lô đón chào họ với hết lòng cung kính, nhìn nơi họ là dân thánh.

Vì lẽ, dân tộc Ki-tô được kêu gọi là mầm non của nhân loại mới, ngày sau này sẽ tập hợp nhau lại, trong ân sủng và bình an chung quanh Chúa Giê-su Ki-tô: ngày sau cùng, toàn thể nhân loại phục sinh, đứng lên «mọi người như một người», như thường nói, và người ấy có tên là «Giê-su Ki-tô».

Phần thêm

Chúng ta hiểu vì sao  các cử toạ trong ngày Chúa nhật, phụng vụ đề nghị thật nhiều lời nói, cử chỉ rất quan tâm và kính trọng đối với dân Chúa…

Các lời chúc và mời gọi: «Chúa ở cùng anh chị em! Trong tình yêu Chúa Ki-tô, anh chị em hãy chúc bình an cho nhau… ». Các cử chỉ tiếp đón cộng đoàn ở cửa nhà thờ, xông hương cộng đoàn khi dâng Lễ, cử chỉ chúc bình an. Tất cả những lời nói, cử chỉ ấy nói lên tính cao cả là chi thể của Thân Thể Chúa Ki-tô.

Các lời trong phụng vụ rất hài hoà với nhau: «Ân sủng và bình an», đó là sứ vụ người Tôi Trung mang đến tận cùng trái đất (I-sa-i-a).

Sứ vụ ấy được chu toàn rất giản dị chỉ cần sẵn sàng đặt dưới ý Cha: «con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con.» (Tv 40, 9)

Thánh Phao-lô được gọi cùng một sứ vụ ấy: «Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an».

***

 

PHÚC ÂM CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN - A (Ga1, 29-34)

 

Alleluia, alleluia!

 Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe, 
Chúa có lời ban sự sống đời đời.
 - Alleluia.

-----------------

  "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian"

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.

 

29 Hôm sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian.

30 Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.

31 Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước."

32 Ông Gio-an còn làm chứng: "Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người.

33 Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần."

34 Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn."

 

Câu truyện này xảy ra, sau khi Chúa Giê-su nhận phép rửa từ ông Gio-an Tẩy giả trên sông Gio-đan: chính lúc ấy ông Gio-an Tẩy Giả mới nhận ra người em họ mình thật là Đấng Mê-si-a. Bộ mặt của thế giới từ nay thay đổi, nhân loại bước sang thời kỳ thứ hai của lịch sử: trước kia là giai đoạn trước Đấng Mê-si-a (thời gian mong chờ) và bây giờ Đấng Mê-si-a ở đây, đứng trước mặt ông, Ngài đến như lời các tiên tri loan báo.

Lúc bấy giờ ông Gio-an Tẩy giả được mở mắt. Tất cả đoạn này miêu tả ông chiêm ngắm, hay có thể nói ông đang sống một thị kiến; và ông được mặc khải mầu nhiệm đấng Ki-tô. Tôi xin lập lại lần lược các từ ngữ thể hiện điều này: «Chiên Thiên Chúa, Thần Khí xuống và ngự trên, Con Thiên Chúa», chính Ngài là «Đấng xoá bỏ tội trần gian».

*Con chiên, điều này nhắc đến con chiên lễ vượt qua. Nghi Lễ Vượt qua hằng năm nhắc lại cho dân chúng, Chúa đã giải thóat họ. Đêm được ra khỏi Ai-cập, ông Mô-sê thực hiện nghi lễ truyền thống, nhưng ông cũng nhấn mạnh: «Từ nay nghi thức này nhắc nhở anh em rằng Thiên Chúa ngự xuống trong chúng ta để giải thoát chúng ta, máu con chiên là dấu ấn cuộc giải thoát của chúng ta». Ông Gio-an Tẩy Giả áp dụng danh hiệu ấy cho Đức Giê-su, Ngài là Con Chiên Lễ Vượt Qua, Ngài là sự hiện diện của Thiên Chúa, Lễ Vượt qua của Chúa giải thoát dân Ngài. Chính Ngài, Đấng Ki-tô giải thoát khỏi ách nô lệ tồi tệ nhất, đó là tội lỗi. Ngài cất đi tội lỗi của trần gian, Ngài hoà giải nhân loại với Thiên Chúa. Ngài chính là Đấng Mê-si-a mọi người trông đợi.  

*Con chiên, điều này làm cho chúng ta nghĩ đến Người Tôi Trung Thiên Chúa trong Sách thứ Hai I-sa-i-a (53): Ngài được ví như con chiên vô tội gánh tội cho muôn dân.

*Sau cùng, Chiên Thiên Chúa có nghĩa là Chiên Thiên Chúa ban cho . Ở đây, tôi nghĩ đến lễ vật của Áp-ra-ham. Khi I-sa-ắc hỏi: “Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?”. Ông Áp-ra-ham đáp: “Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ” (St 22, 7-8). Ông Gio-an Tẩy Giả giới thiệu, ở đây con chiên thật sự do Thiên Chúa chuẩn bị. Những tế vật toàn thiêu đã được bãi bỏ như được nghe trong thánh vịnh 39: «7 Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, 8 con liền thưa: “Này con xin đến!” (Tv 39 (40), 7-8). Chính sự sẵn sàng, lòng tin tưởng của Người Con (điều sau này, Thánh Phao-lô gọi là sự vâng lời) mới xóa tội trần gian: sự sẵn sàng chứ không phải lễ toàn thiêu.

Điều xác quyết thứ hai của ông Gio-an Tẩy Giả về Chúa Giê-su, và cũng là một lời minh chứng: «Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người». Chúa Giê-su chính là Đấng được «Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự». Đây cũng là một danh hiệu tiêu biểu cho Đấng Mê-si-a, nhận được Thần Khí Thiên Chúa để chu toàn sứ mạng.

Mê-si-a, theo tiếng Do-thái có nghĩa là được xức dầu, như vị vua ngày lễ phong vương được xức dầu, dấu hiệu Thần Khí đồng hành trong suốt sứ mạng của tân vương. Thời vua Đa-vít người ta nói rằng, Thần Khí đổ tràn lên ông lúc ấy; thế nhưng, hết vua này đến vua khác, các vua Ít-ra-en đã minh chứng rằng, họ rất có thể không theo linh ứng của Thần Khí. Chúa Giê-su, trái lại, ông Gio-an Tẩy Giả nói với chúng ta rằng Thần Khí ngự trên Ngài, đó là cách nói tất cả những gì Ngài hành động là chính Thần Khí hành động.

Thần Khí, là Thần Khí tình yêu. Nơi Chúa Giê-su nhân loại được giải thoát khỏi ngờ vực và hận thù: Chúa Giê-su khởi sự nhân loại mới. Từ Địa Đàng, Thiên Chúa mời gọi con người đi vào một cuộc đối thoại tình yêu: ông A-đam từ chối, nghi ngờ và phản đối; Chúa Giê-su, trái lại, hướng về Chúa Cha trong một thái độ đối thoại hoàn hảo, không tì bóng. Như Thánh Phao-lô nói trong Phần Mở Đầu, Chúa Giê-su hướng về Thiên Chúa (tiếng Hy-lạp là pros ton thon), Ngài là tiếng XIN VÂNG của loài người hướng về Thiên Chúa. Đức Giê-su, chính xác là Đấng chu toàn kế hoạch của Thiên Chúa: nơi Ngài là Người, toàn nhân loại kết hợp cùng Thiên Chúa Ba Ngôi.

Điều thứ ba, ông Gio-an Tẩy giả xác quyết về Đức Giê-su: Ngài là Con Thiên Chúa. Thời ấy, nói như thế, có nghĩa là Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a, nhưng chưa phải lời xác định thần học, theo nghĩa chúng ta hiểu ngày nay, Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, hay theo nghĩa Thánh Gio-an viết trong Phần Mở Đầu, khi ngài nói: «Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.» (Ga 1, 14). Đối với Gio-an Tẩy giả, đó là cách nói Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a, đó cũng là một điều rất đáng kể rồi! Và ngài nói với tất cả sự trịnh trọng: «34 Tôi đã thấy, nên xin chứng thực».

Sau cùng, ông Gio-an Tẩy Giả khẳng định rằng, Chúa Giê-su gánh tội trần gian. Một khi tội trần gian được xóa bỏ, đó là lúc ta tiến vào thời giải phóng của Đấng Thiên Sai. Thời Gio-an Tẩy giả, người ta tin rằng Đấng Mê-si-a thanh tẩy tội toàn dân; như tiên tri I-sa-i-a nói: «9 Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết ĐỨC CHÚA sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển». (Is 11, 9). Và ông Gio-an Tẩy Giả ý thức, mình là đấng tiền hô (đoạn sau bài này minh chứng điều ấy), nên chính xác ông giảng về sự hoán cải, để dọn những tâm hồn trong thời đại mới này. Chính ông phát biểu: «31 Tôi đã không biết Người, nhưng để Người (có nghĩa là Chiên Thiên Chúa) được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước»

Ông Gio-an Tẩy Giả muốn khép mình như ông Si-mê-ông, lúc Chúa Giê-su được dâng trong Đền thánh: «29 Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. 30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ 31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân» (Lc 2, 29-31); ông Gio-an Tẩy Giả nói lời tương tự: «Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.» Gio-an Tẩy-giả đến để dọn đường cho Đấng Mê-si-a, bây giờ ông nhường chỗ cho Ngài.

Thế nhưng, chúng ta có thể đặt câu hỏi: ông Gio-an Tẩy Giả thấy Chúa Giê-su đến, chỉ định ngay Ngài là «Đấng gánh tội trần gian». Tuy nhiên, từ khi lời ấy được tuyên bố, bề ngoài không thấy chi thay đổi trên trần gian; tội lỗi đủ thứ vẫn lan tràn, quang cảnh của thời đại chúng ta, không làm cho chúng ta nghĩ có thể nào thay đổi! Nhưng không thể ngờ vực lời của Gio-an Tẩy giả được. Như thế có nghĩa gì? Chắc chắn, không phải tội lỗi mọi thứ biến mất đi, như sau tác động của chiếc đũa thần; nếu như thế còn đâu sự tự do của chúng ta?

Ông Gio-an loan báo một sự thật căn bản của Mặc Khải: Chúa Ki-tô ban cho loài người khả năng thoát khỏi mọi xiềng xích của tội lỗi. Nguồn gốc của tội lỗi nằm trong tận đáy lòng người, đã không mấy tin vào tình yêu Thiên Chúa, ngờ vực Thiên Chúa. Trong Thánh Kinh, có nhiều đoạn minh họa sự ngờ vực căn bản ấy: (trong vườn Địa Đàng, trong sa mạc thời Xuất Hành) «Chúa bênh đỡ chúng ta hay chống lại chúng ta?». Tội ấy gọi là tội tổ tông, vì là nền tảng của mọi tội lỗi, Chúa Giê-su «gánh tội» bằng sự toàn hảo của lòng tín thác và tình yêu của Ngài. Sự tự do của chúng ta được ghép toàn vẹn hay không vào thân cây mới này, với nhựa cây là Thần Khí.

***

 

Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions


Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com