Lời Chúa CN

Tìm hiểu Kinh Thánh Chúa nhật 02 Mùa Chay Năm A - Marie-Noëlle Thabut

BÀI ĐỌC 1 (St 12, 1-4a)

 

"Áp-ra-ham, người cha dân Chúa, được kêu gọi."

Trích sách Sáng thế.

 

1 ĐỨC CHÚA phán với ông Áp-ram: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.

2 Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành.

3 Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi;

Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.

Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc."

4 Ông Áp-ram ra đi, như ĐỨC CHÚA đã phán với ông

 

« Khi ấy ông Áp-ra-ham sống ở Can-đê » (Lnd: câu này không có trong bản dịch Thánh Kinh Việt nam). Lúc ấy ông còn mang tên Áp-ram - chỉ sau này, có thể nói, sau nhiều năm hành hương Áp-ram nhận từ Thiên Chúa tên mới của ông, tên ngày nay chúng ta đều biết, Áp-ra-ham (có nghĩa là cha của vô số con cháu), và thật vậy, chúng ta lũ lượt, ở rải rác khắp mặt đất nhận ông làm cha trong đức tin. Thế mà vỏn vẹn những dòng chữ chúng ta vừa đọc trên đây là văn bản đầu tiên của cả một hành trình đức tin, trước tiên là đức tin Do-thái, dĩ nhiên rồi, sau đó theo thứ tự thời gian, đức tin Ki-tô hữu và của người Hồi giáo.

Ông sống ở Can-đê, tức là xứ I-rắc hiện nay, chính xác là ở mãi cực đông-nam xứ I-rắc, trong thị trấn tên là Our trong thung lũng Êu-phơ-rát, gần vịnh Ba-tư. Ông sống với vợ tên Sa-rai (bà cũng sẽ được Thiên Chúa sau này đặt cho một tên mới gọi là Sa-ra). Áp-ram và vợ là Sa-rai không có con. Ông sống chung với cha là Te-ra và các anh em là Na-kho và Ha-ran, cùng với người cháu là Lót. Chúng ta đang ở trong thế kỷ thứ XIX trước CN, thời ấy, thật vậy, các sử gia ngày nay tìm lại có những dấu hiệu di dân trong thung lũng Êu-phơ-rát. Chính trong bối cảnh ấy, một ngày nọ người bố già Tê-ra lên đường với Áp-ram, Sa-rai và đứa cháu nội là Lót. Đoàn người và thú vật đi ngược lên thung lũng Êu-phơ-rát, từ đông-nam lên tây-bắc với ý định trở xuống xứ Ca-na-an. Dĩ nhiên có con đường ngắn hơn là cái tam giác ấy để nối liền vịnh Ba-tư với Địa Trung Hải, nhưng phải qua một sa mạc mênh mông. Tê-ra và Áp-ram chọn đi theo con đường hình « bánh sừng trâu », tên thật khéo chọn. Trạm dừng chân đầu tiên của họ về hướng tây-bắc mang tên là Ha-ran. Nơi đây người cha già qua đời. Chính ở ấy - cách dây 4000 năm - khoảng 1850 trước CN - lần đầu tiên Thiên Chúa nói với Áp-ram.

Những chữ đầu tiên Chúa nói: « hãy ra đi vì ngươi » (vì lợi ích của ngươi). Rất tiếc bản dịch của chúng ta chỉ chép: « Hãy rời bỏ xứ sở, … mà đi » (c1) , nhưng nếu chúng ta thích hiểu biết có thể tra bản dịch của André Chouraqui - hay những ai may mắn hơn từ bản dịch Do Thái ngữ - khi dịch từng mỗi từ ra thì không thể nào nghi ngờ được. Thế nhưng tất cả lợi ích của đức tin hay không lợi ích là ở chỗ đó, trong cụm chữ « hãy ra đi vì ngươi ». Sở dĩ Chúa gọi con người là vì hạnh phúc con người, không có chủ đích gì khác! Kế hoạch yêu thương của Chúa nằm vỏn vẹn trong chữ ấy « vì ngươi ». Lúc ấy Chúa đã mặc khải là Đấng muốn cho con người hạnh phúc (trong một thời điểm chính yếu khác trong đời Áp-ra-ham - lúc hiến tế I-sa-ắc - Chúa cũng dùng những từ ấy « hãy ra đi vì ngươi » để nhắc lại cho ông suốt đoạn đường đã đi qua để tăng nghị lực cho ông trước thử thách)

« hãy ra đi vì ngươi » « Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi » (c1). Phần sau chỉ là lời hứa: « Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc."» (c3). Áp-ram được thoát khỏi vận mệnh tự nhiên của ông, được Thiên Chúa trao ban một ơn gọi có tầm vóc hoàn vũ. Áp-ram lúc bấy giờ chỉ là một người du mục, có thể giàu thật, nhưng không ai biết đến và không có con. Và vợ ông thì đã quá tuổi có thể sinh nở. Thế nhưng nơi ông, Chúa chọn làm cha một dân tộc lớn. Đó là ý nghĩa của chữ « vì ngươi »bvừa rồi: Thiên Chúa hứa cho ông tất cả những gì làm cho hạnh phúc thời ấy: có một đàn con cháu đông đúc và được Thiên Chúa chúc phúc. Nhưng hạnh phúc ấy không chỉ cho ông mà thôi: trong Thánh Kinh không bao giờ một thiên chức, một ơn gọi để phục vụ quyền lợi ích kỷ của người được ban cho mà thôi. Tôi thiết tưởng đó cũng là một tiêu chuẩn của một ơn gọi đích thực: mọi ơn gọi luôn luôn là một sứ vụ phục vụ kẻ khác. Trong bài này có câu: « Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi » (c3a). Kế hoạch hạnh phúc ban qua Áp-ram, nhưng vượt qua ông, tràn ra khỏi ông. Nó liên hệ đến cả nhân loại: « Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc » (c3b). Suốt lịch sử Ít-ra-en Thánh Kinh luôn trung tín với sự mặc khải đầu tiên ấy: Áp-ra-ham và dòng dõi con cháu là dân Chúa tuyển chọn, trong mầu nhiệm bí hiểm của thánh ý Ngài, nhưng vì lợi ích cho toàn thể nhân loại, và cứ như thế từ ngày đầu tiên, từ lúc loan báo cho Áp-ram.  

Giờ khởi đầu của cuộc hành trình vĩ đại đã điểm. Thể văn đơn sơ gần như trần trụi là điểm đáng chú ý của bài này. Bài chỉ nói: « Ông Áp-ram ra đi, như ĐỨC CHÚA đã phán với ông » (4). Cuộc khởi hành chỉ vì một lời của Thiên Chúa là minh chứng tuyệt vời cho lòng tin. Bốn nghìn năm sau chúng ta có thể nói đức tin của mỗi chúng ta kín múc từ đức tin của tổ phụ Áp-ra-ham, đó cũng là đức tin Thánh Phao-lô phát biểu trong thư gửi tín hữu Ga-la-ta: « những ai dựa vào đức tin, những người ấy là con cái ông Áp-ra-ham; Như vậy, những kẻ dựa vào đức tin thì được chúc phúc làm một với ông Áp-ra-ham, người có đức tin » (Gl 3, 7.9). Và khi tác giả sách Do-thái nói lên đức tin là như thế nào, sự ra đi của ông Áp-ra-ham  được nêu lên làm mẫu gương, sự ra đi này giống như nhảy vào một nơi chưa hề có ai biết, chỉ được lý giải bằng lòng cậy trông vào Thiên Chúa: « 8 Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu.(c8); Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách (c,9); Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. 12Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được.(c11-12) »

***

 

THÁNH VỊNH ( Tv32, 4-5.18-20. 22)

 

"Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài".

 

4 Vì lời CHÚA phán quả là ngay thẳng,
mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin.

5 Chúa yêu thích điều công minh chính trực,
tình thương CHÚA chan hoà mặt đất.

18 CHÚA để mắt trông nom người kính sợ Chúa,
kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương,

19 hầu cứu họ khỏi tay thần chết
và nuôi sống trong buổi cơ hàn.

20 Tâm hồn chúng tôi đợi trông CHÚA,
bởi Người luôn che chở phù trì.

22 Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy CHÚA,
như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.

 

(c5) «… tình thương CHÚA chan hoà mặt đất » phải có lòng tin vững vàng mới có thể thốt lên câu này! Có lẽ đây mới là đặc điểm của người tín hữu: trải qua suốt cuộc sống của họ, trong ấy niềm vui có, thử thách cũng có, dù thế nào đi nữa mặt đất vẫn chan hòa tình thương của Chúa. Phải mất một chặng đường dài được Mặc Khải, nhân loại mới khám phá ra một sự thực nền tảng, đó là: Chúa là tình yêu, và mặt đất (hiểu ở đây là mọi tạo vật) chan hòa tình yêu của Ngài. Thực ra (tôi nhận xét có một mối liên quan tuyệt vời giữa những bài đọc của chúa nhật Mùa Chay thứ hai này với chúa nhật thứ nhất), khi tác giả sách Sáng thế nói về A-đam là nói về con người, trước khi được mặc khải tình yêu Thiên Chúa, một người sống trong tình yêu ấy mà không hề ý thức.

Tôi xin trở lại câu truyện vườn Địa Đàng, chúng ta đã đọc trong chúa nhật thứ nhất Mùa Chay năm nay: con người biết mình được tạo dựng để sống và thống trị một « mảnh vườn tuyệt vời » (đó là ý nghĩa của « vườn Địa Đàng ») nhưng chỉ vì ngờ vực giới răn Thiên Chúa làm cho con người lạc mất con đường dẫn đến cây trường sinh, mặt dầu đã được dành cho ông. Hẳn các bạn còn nhớ câu truyện có nói rõ: trong vườn ấy Chúa cho « mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác » (St 2, 9). Tất cả các thứ cây ấy đều có thể ăn trái chỉ trừ « cây cho biết điều thiện điều ác ». Thì ở đây, tác giả ngụ ý nói trong bài tường thuật, khi Chúa cảnh báo A-đam đừng ăn trái của cây cho biết điều thiện điều ác, lẽ ra con người và người đàn bà phải tin cậy, phải hiểu rằng đó là để tránh cho họ sự dữ.

Hẳn các bạn biết câu của nhà triết học Kierkegaard: ngược lại với tội lỗi không phải là nhân đức mà là đức tin, (lòng cậy trông). Chính vì lòng cậy trông ấy đã khiến cho ông Áp-ra-ham bỏ xứ mà ra đi, ra đi chỉ vì một lệnh của Chúa; nhưng thực ra, một lệnh có ghép với một lời hứa hạnh phúc… Tuy nhiên muốn phó thác cả đời mình vì những lời hứa, cũng phải có lòng cậy trông hoàn toàn vững vàng. Cũng phải tin rằng ông Áp-ra-ham đã nghe rõ lời Chúa nói « Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi … Ta sẽ làm cho ngươi ... » (St 12, 1b-2a), có nghĩa là ta gọi ngươi vì ngươi, vì quyền lợi của ngươi. Vấn đề của A-đam là đã tin trái ngược lại, tưởng rằng lệnh của Chúa có ý định xấu. Và suốt lịch sử của dân Chúa chọn, dao động giữa hai thái độ, lúc thì tin tưởng vững vàng nơi Chúa của mình, ý thức rằng cùng đích trung tín với những giới luật Chúa là hạnh phúc vì sở dĩ Chúa ban cho Lề Luật là để cho con người hạnh phúc. « Vì lời CHÚA phán quả là ngay thẳng » đó là (c4) của bài Thánh vịnh hôm nay, đó là lời của lòng tín thác. Lúc khác thì trái ngược lại, dân chúng phản đối, nghe theo bụt thần: trung thành với Chúa làm chi, nghe theo Lề Luật làm chi ? Quá khắc khe và vì lý do gì mà phải theo ? Ai có thể bảo đảm rồi sẽ hạnh phúc ? Chúng tôi muốn tự do, muốn làm gì thì làm… chỉ vâng lời chính mình.

Tác giả bài thánh vịnh biết rõ những dao động của dân Chúa. Mời gọi họ trở lại dìm lòng xác tín, vào đức tin, đó là con đường duy nhất để xây dựng hạnh phúc lâu dài. Lòng xác tín vào đức tin ấy dựa vào một trải nghiệm qua nhiều thế kỷ. Có thể nói chính vì ta đã có nhiều thử thách nhưng « mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin » (c4). Trong nguyên ngữ bài này chữ « làm » có nghĩa mạnh hơn trong tiếng Pháp: từ « làm » của Thiên Chúa, là kỳ công của Ngài, công trình cứu độ dân Ngài. Thật sự, qua kinh nghiệm dân Chúa chọn, có thể nói: « CHÚA để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, » (c18) vì Chúa trông nom họ như Người Cha trông nom con mình, như sách Đệ Nhị Luật nói lúc qua hoang địa sau khi giải phóng khỏi Ai-cập.

Các bạn hẳn đã chú ý cụm chữ « người kính sợ Chúa » được giải thích trong câu kế tiếp: đó là những « kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương ». Thật xa với sự sợ hãi, còn trái ngược lại! Hẳn các bạn cũng còn nhớ, qua câu 13 thánh vịnh 102 ( 103) chúng ta đã gặp một định nghĩa khác của kính sợ Thiên Chúa, đó là thái độ tin tưởng của người con đối với lòng trìu mến, yêu thương của cha mình « Như người cha chạnh lòng thương con cái, CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn ». Tác giả thánh vịnh còn tiếp trong bài hôm nay « hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn. » (c19). Một lần nữa ở đây, chính kinh nghiệm nói lên; không thể nào còn sống nếu Chúa không can thiệp, mà cũng không sao còn sống lúc phải đi xuyên qua sa mạc. Còn « buổi cơ hàn » ở đây hẳn là ngụ ý nói đến bánh Ma-na Chúa đã cho rơi xuống đúng lúc trong thời Xuất Hành, khi nạn đói bắt đầu đe dọa. Trải nghiệm về sự quan tâm của Thiên Chúa, tất cả dân Chúa chọn có thể chứng minh điều ấy suốt mọi thời đại, và một khi hát: « mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin » là lúc nhắc lại tên của Ngài: « Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín » (Xh 34, 6) đã được mặc khải cho ông Mô-sê.   

Bài thánh vịnh 32 bắt đầu bằng: « Người công chính, hãy reo hò mừng CHÚA, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen ». Đây là một bài ca hoan hỉ, ngợi khen « Người công chính » - tiếng Do thái gọi là hassidim - là những người sống trong mối quan hệ Giao Ước với Thiên Chúa, quan hệ cậy trông và yêu thương. Toàn bài thánh vịnh ca ngợi những lý do của sự ngợi khen:  tình yêu của Ngài luôn luôn thể hiện, Lời Chúa, giải thoát khỏi Ai-cập, được nâng đỡ trong mọi cuộc chiến … Thiên Chúa lúc nào cũng đồng hành với con cái Ngài và đặc biệt trong cơn thử thách. Chúa chăm chút những kẻ trông cậy nơi Ngài, những kẻ phó thác vào Ngài.

Định nghĩa của từ « kính sợ Chúa » được rõ ràng nhờ sự đối xứng của đoạn thứ hai: những kẻ kính sợ là những những ai đặt hết hy vọng vào tình yêu của Ngài, « cứu họ khỏi tay thần chết » (c19) (không phải sự chết thể lý); có thể tin cậy nơi Ngài: « Vì lời CHÚA phán quả là ngay thẳng… đáng cậy tin » (c4). Cũng đừng quên hai từ đồng nghĩa: « lời CHÚA » và « việc Chúa làm »: Chúa nói gì thì làm như thế! Và đây là nguồn cậy trông tốt đẹp nhất cho chúng ta: « dự án cứu độ của Chúa không chỉ là một lời hứa, là một thực tế đang được xây dựng ». Cả bài Thánh Vịnh là lời cổ vũ cho lòng cậy trông, bởi vì: « tình thương CHÚA chan hoà mặt đất ».

Đoạn cuối là một lời nguyện xin được cậy trông: « Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy CHÚA, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài ». Và chúng ta cũng hiểu nghĩa cách phát biểu trong cấu trúc ngữ pháp này: đây không phải một xác tín. Không phải « tình thương luôn đổ xuống chúng con » nhưng là lời mời gọi tín hữu mở lòng lãnh nhận tình thương ấy.

Trong câu 22 có cụm chữ: « chúng con hằng trông cậy ». Đây là chiều kích sau cùng của bài thánh vịnh: sự chờ đợi của dân tộc Ít-ra-en. Chúng ta nên chú ý những từ « chờ đợi, hi vọng, cậy trông ». Chính trong lòng cậy trông ấy người Tôi Trung kín múc năng lực: không phải năng lực của chính mình mà do Chúa ban cho.

***

 

BÀI ĐỌC 2 (2Tm 1, 8b-10)

 

"Thiên Chúa kêu gọi và chiếu soi chúng ta."

Trích thư thứ hai của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi chi Ti-mô-thê.

 

8 …dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.

9 Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su,

10 nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Ki-tô Giê-su đã xuất hiện. Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử

 

Thánh Phao-lô đang bị cầm giữ trong nhà giam Rô-ma, thánh nhân biết không bao lâu sẽ bị hành quyết: ngài trao lại những lời khuyên bảo cuối cùng cho người môn đệ yêu dấu Ti-mô-Thê: « … dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng. » Lao khổ ngài nói ở đây là sự bách hại; không thể nào tránh được cho một môn đệ đích thực của Chúa Ki-tô. Nếu sự lao khổ không thể tránh được cho những ai liều lĩnh loan báo Tin Mừng, thế thì ta tự hỏi tại sao trong vài quốc gia các Ki-tô hữu lại không bị bách hại ? Phải chăng các xứ ấy đã được hoàn toàn phúc âm hoá ? Thật khó tin… Hay là việc loan báo Tin Mừng của chúng ta đã bị nhạt vị đi rồi ?

Cụm chữ « loan báo Tin Mừng » được lặp lại cuối bài có vẻ như bài này được trình bày theo thể văn có thể gọi là thể kẹp. Đoạn trung tâm được đóng khung giữa hai từ ngữ giống nhau, cho chi tiết giải thích Tin Mừng ấy là gì. Tất cả được tóm gọn trong vài chữ: « 9 Người đã cứu độ … trong Đức Ki-tô Giê-su » (c9). « Chúa đã cứu độ » đó là quá khứ, là điều đã được rồi, nhưng đồng thời muốn cho con người đi vào trong ơn cứu độ ấy thì Tin Mừng phải được loan báo cho họ. Vì thế, thật vậy chúng ta được trao cho một ơn gọi thánh: « Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, … Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su ». Ơn gọi thánh vì được trao ban từ Chúa chí thánh, ơn gọi thánh vì không khác gì loan báo kế hoạch của Chúa, ơn gọi thánh vì kế hoạch Thiên Chúa cần chúng ta hợp tác: mỗi người phải nhận phần tham dự của mình, như Thánh Phao-lô nói. Nhưng tôi nghĩ rằng « ơn gọi thánh » còn có ý nghĩa khác: kế hoạch của Chúa cho chúng ta, cho nhân loại quá vĩ đại nên đáng được gọi như thế. Vì nếu nghĩ như Thánh Phao-lô nói về « Kế hoạch yêu thương » của Chúa, thì ơn gọi của cả nhân loại là làm cho chỉ còn nên một với Chúa Giê-su Ki-tô, ta là Chi Thể còn Chúa Ki-tô là Đầu và đi vào hiệp nhất với Chúa Ba Ngôi thánh. Ơn gọi đặc biệt của các Tông Đồ cũng nằm trong ơn gọi hoàn vũ cho nhân loại.

« Người đã cứu độ » (c9). Trong Thánh Kinh chữ cứu độ luôn luôn đồng nghĩa với giải thoát. Cũng phải có một sự mặc khải tiệm tiến về thực tại ấy cho dân của Giao Ước: Chúa muốn con người tự do và Ngài không ngớt can thiệp để giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức của nô lệ. Về những hình thức nô lệ, nhân loại chịu mọi thứ nô lệ: nô lệ chính trị như những năm nô lệ ở Ai-cập, hay khi bị đày bên Ba-by-lon chẳng hạn, và cứ mỗi lần như thế Ít-ra-en nhận ra công trình của Chúa khi họ được giải thoát; nô lệ xã hội, thế nhưng trong Lề Luật (Luật Tô-ra) các ngôn sứ không ngừng kêu gọi hoán cải tâm hồn để mọi người có điều kiện sống xứng đáng và tự do; nô lệ tôn giáo, còn độc hại hơn nữa (có câu bất hủ « Hỡi Tự do, có bao nhiêu người sát nhân, nhân danh ngươi! », còn có người nói quá đáng hơn « Hỡi tôn giáo có bao nhiêu người phạm tội giết người nhân danh mi! »… Và các ngôn sứ rất kinh khủng về vấn đề này để nghiêm cấm và tránh xa mọi hình thức thờ lạy bụt thần: Lề Luật, tất cả không có chủ đích gì khác hơn là để giải thoát chúng ta. Rốt cuộc sự nô lệ - điều nô lệ kinh khủng nhất - đó là sự chết. Hẳn các bạn biết thánh vịnh 109. Bài này loan báo Đấng Mê-si-a như một vị vua chiến thắng mọi kẻ thù, và Thánh Phao-lô áp dụng cho Chúa Giê-su, nói rằng Ngài chiến thắng sự chết. Thánh vịnh 109 chép: « Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con. » (Tv 109 (110), 1) và Thánh Phao-lô nói thêm trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin - tô: « Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết » (1Cr 15, 26)

« Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử » (c10). Chúng ta nhận xét nơi đây những đối kháng của Thánh Phao-lô: - sự chết/sự sống, tối tăm/ánh sáng -  Các bạn có thể nói: chúng ta vẫn tiếp tục chết kia mà; thật vậy, nhưng từ nay sự chết đối với chúng ta như một giai đoạn phải qua nhưng bên kia là ánh sáng, ánh sáng chiếu không suy tàn. Sự chết thể lý thuộc về cấu tạo thể chất của cơ thể, làm bằng bụi đất, như sách Sáng thế nói, nhưng sự chết không tách lìa chúng ta khỏi Chúa Giê-su Ki-tô. Và đó là món quà nhưng không Chúa ban. Các bạn cũng như tôi nghe Thánh Phao-lô nhấn mạnh: « Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su » (c9). Ân sủng ấy trở nên hiện thực qua cuộc đời trần thế của Chúa Giê-su Ki-tô, nhưng Thánh Phao lô nhấn mạnh đến sự kiện kế hoạch ấy của Thiên Chúa đã có « từ muôn thuở ». Chúa Giê-su Ki-tô biểu lộ trước mắt chúng ta bằng sự sống của Ngài, sự chết của Ngài và sự phục sinh của Ngài, thế nhưng Chúa vẫn luôn hiện diện cạnh bên Đức Chúa Cha. Ân sủng ấy Ngài đã ban cho chúng ta từ trước muôn thuở, và bây giờ chúng ta mới thấy được. Tôi xin trở lại câu bất hủ trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô: « Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thươngNgười đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô. Cũng trong Đức Ki-tô, » (Ep 1, 9-10). Vỏn vẹn câu ngắn này cũng đủ để làm cho chúng ta mạnh dạn: mỗi khi chúng ta được gọi phục vụ loan báo Tin Mừng, chúng ta có thể đặt hết tin tưởng vào sức mạnh toàn năng của Thiên Chúa.

***

 

PHÚC ÂM (Mt 17, 1-9)

 

Câu xướng: Từ trong đám mây sáng chói, có tiếng Chúa Cha phán rằng: 
« Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người »

-----------------

"Mặt Người chiếu sáng như mặt trời".

Phúc Âm theo Thánh Mát-thêu.

 

1 Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.

2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.

3 Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.

4 Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a."

5 Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! "

6 Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.

7 Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: "Chỗi dậy đi, đừng sợ! "

8 Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi.

9 Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng: "Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy."

 

« Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình ». Một lần nữa chúng ta đứng trước mầu nhiệm sự chọn lựa của Chúa. Gần đây tại Xê-da-rê, Chúa Giê-su nói với Phê-rô: « anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. » (Mt 16, 18). Nhưng Phê-rô được tấn phong cho sứ mạng hàng đầu, theo đúng nghĩa của sứ mạng ấy, không chỉ một mình với Chúa Giê-su. Có hai anh em con ông De-bê-đê đi cùng là Gia-cô-bê và Gio-an. « Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao » (c1b): trên một ngọn núi cao, ông Mô-sê được Thiên Chúa Mặc Khải về Giao Ước và nhận các bia Lề Luật, Luật để giáo huấn dần dần dân của Giao Ước sống trong tình yêu Thiên Chúa và tình yêu anh em; trên một đỉnh núi cao, ông Ê-li-a được mặc khải Thiên Chúa dịu dàng như làn gió thoảng. Mô-sê và Ê-li-a, hai cột trụ của Cựu Ước …

Trên đỉnh núi cao Chúa Hiển Linh, Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an những cột trụ của Giáo Hội, được mặc khải một Thiên Chúa từ bi nhân hậu nơi Chúa Giê-su: « Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! » Và sự mặc khải này để củng cố đức tin cho ba ông trước cơn bão táp của cuộc Thương Khó. Thánh Phê-rô sau này viết: « Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. 17 Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến". 18 Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người. » (2Pr 1, 16-18)  

Cũng tương tự như thế, chúng ta đọc trong thư Thánh Phao-lô gửi cho Ti-mô-tê (bài dọc thứ hai chúa nhật hôm nay): « Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su,10 nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Ki-tô Giê-su đã xuất hiện. » (2Tm 1, 9b-10a). Ân sủng, tức là sự hiện diện của Thiên Chúa, trên Con Người Chúa Giê-su, Người Con yêu dấu. Câu: « Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! » Chỉ định Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a: Con là danh hiệu thường ban cho vua, và Đấng Mê-si-a có những nét của hậu duệ vua Đa-vít, trên ngai vua Giê-ru-sa-lem. « Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người ». Điều này có ý nói Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a-Người Tôi Trung, theo nghĩa của tiên tri I-sa-i-a (Is 42, 1)... « hãy vâng nghe lời Người! » có nghĩa là Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a - Ngôn sứ, theo nghĩa ông Mô-sê loan báo cho dân chúng trong sách Đệ-nhị-luật: « Từ giữa anh (em), trong số các anh em của anh (em), ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh (em) hãy nghe vị ấy. » (Đnl 9, 15)

« con xin dựng tại đây ba cái lều ». Câu này của Phê-rô gợi lên giai đọan Hiển Linh có lẽ được diễn ra lúc Lễ Lều, hay ít nữa trong bầu khí của Lễ Lều. Lễ này dược cử hành trọng thể để hồi tưởng đến lúc vượt qua sa mạc thời Xuất Hành và Giao Ước với Thiên Chúa trong bầu khí sốt sắng, được các tiên tri sau này gọi là lễ đính hôn của dân với Thiên Chúa từ bi nhân hậu và tín trung. Suốt tám ngày lễ, người ta sống dưới lều chờ đợi và khẩn cầu Thiên Chúa biểu lộ một lần nữa, thể hiện Đấng Mê-si-a đến. Trong suốt thời gian tám ngày, có nhiều tổ chức mừng lễ, hát lên những bài thánh vịnh loan báo Đấng Mê-si-a và khẩn cầu Chúa mau gửi Ngài đến. 

Trên núi Hiển Linh, bất chợt ba Tông Đồ chứng kiến sự mặc khải ấy: không lạ gì các ông hoảng sợ, như bất cứ ai trước sự biểu lộ của Chúa Cực Thánh. Hãy nhớ lại tiên tri I-sa-i-a chỉ còn biết lặp lại: « Thánh! Thánh! Chí Thánh! ĐỨC CHÚA các đạo binh! » (Is 6, 3). Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi Chúa Giê-su mặc khải và trấn an các ông: từ Cựu Ước dân của Giao Ước được mặc khải Chúa Cực Thánh cũng là Chúa gần gũi con người và sợ hãi Ngài là không thích hợp. Thế nhưng sự mặc khải mầu nhiệm Đấng Mê-si-a, dưới tất cả phương diện, mọi người chưa có thể lãnh nhận được. Chúa Giê-su ra lệnh cho họ không được kể lại lúc bây giờ, trước khi « Con Người từ cõi chết trỗi dậy ». Qua câu sau cùng này, Chúa Giê-su xác nhận sự mặc khải này cho ba môn đệ: Ngài là Đấng Mê-si-a trong thị kiến tiên tri Đa-ni-en, ngài thấy dưới hình thức một con người bước xuống từ đám mây: « có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. » (Đn 7, 13-14)

Tác phẩm còn tốt đẹp hơn lời tiên tri: nơi Chúa Giê-su Người-Chúa, cả nhân loại sẽ nhận vương triều vĩnh hằng và đời đời sẽ được hiển linh. Thế nhưng Chúa Giê-su nói rõ: « Đừng nói cho ai hay… cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy. » Chỉ sau Phục Sinh của Chúa Giê-su các Tông Đồ mới có thể là chứng nhân.

***

 

Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions


Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân

Hiệu đính: Nguyễn Thế Hoằng.

 


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com