Lời Chúa CN

Tìm hiểu Kinh Thánh Chúa nhật 03 Mùa Chay Năm A - Marie-Noëlle Thabut

BÀI ĐỌC 1 (Xh 17, 3-7)

 

"Xin cho chúng tôi nước để chúng tôi uống".

Trích sách Xuất Hành

 

Ở đó, dân khát nước nên đã kêu trách ông Mô-sê rằng: "Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không? "

4 Ông Mô-sê kêu lên cùng ĐỨC CHÚA: "Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con! "

5 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục Ít-ra-en; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi.

6 Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống." Ông Mô-sê đã làm như vậy trước mắt các kỳ mục Ít-ra-en.

7 Ông đặt tên cho nơi ấy là Ma-xa và Mơ-ri-va, nghĩa là thử thách và gây sự, vì con cái Ít-ra-en đã gây sự và thử thách ĐỨC CHÚA mà rằng: "Có ĐỨC CHÚA ở giữa chúng ta hay không? "

 

Dù các bạn có cố gắng tìm trên bản đồ sa mạc Si-nai mấy đi nữa các bạn cũng không tìm thấy một địa danh nào tên Ma-xa  Mơ-ri-va, nó không có thực, chỉ là một tên tượng trưng. Ma-xa có nghĩa là « thách đố », Mơ-ri-va có nghĩa là « gây sự », bởi vì, thật vậy đây là một truyện thách đố, gần như một cuộc nổi loạn xảy ra ở đó. Câu truyện xảy ra tại Rơ-phi-đim, giữa sa mạc, một nơi nào đó giữa Ai-cập và Do-thái. Bài chỉ vỏn vẹn nói: « Họ đã đóng trại ở Rơ-phi-đim » (Xh 17, 1). Ông Mô-sê hướng dẫn dân chúng (đàn ông, phụ nữ trẻ con, súc vật) từ nơi cắm trại này đến nơi cắm trại khác, từ điểm nước này đến điểm nước khác. Nhưng đến đoạn Rơ-phi-đim thì thiếu nước. Dễ hiểu thôi, giữa hoang địa - lại còn trời nóng bức - việc thiếu nước có thể nhanh chóng trở nên rất trầm trọng và có thể suy biến. Thân thể mất nước nhanh chóng, trở nên vấn đề sinh tử và làm chúng ta hốt hoảng.

Toàn dân bị hốt hoảng. Làm gì được trong trường hợp này ? Tổ tiên chúng ta trong thế kỷ thứ XIII trước CN làm giống y như chúng ta ngày nay: quay về buộc tội chính phủ; và chính phủ lúc ấy là ông Mô-sê. Ai cũng dễ buộc tội ông Mô-sê quá, trốn khỏi Ai-cập tìm tự do thì tốt đấy, nhưng để chết ở hoang địa thì có ích gì ? Và hơn nữa người ta có khuynh hướng tô đẹp thêm những kỷ niệm, mọi người bắt đầu mủi lòng nhớ về quá khứ và về những nồi thức ăn và nước uống dư tràn nơi chủ họ ở Ai-cập.

Cuộc nổi loạn dấy lên chống ông Mô-sê nhưng thật ra nhắm kẻ khác: nhắm chính Thiên Chúa, vì họ biết sở dĩ ông Mô-sê đến nay dẫn dắt dân chúng, là theo lệnh ông được lãnh nhận, ông tuyên bố lãnh nhận khi xưa, khi Thiên Chúa nói với ông trong bụi gai bừng cháy, và Ngài nói: « Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập » (Xh 3, 8) … Thiên Chúa này là ai mà quả quyết giải thoát cả một dân tộc và đưa họ đến chỗ chết đói, chết khát trong một hoang địa khô cằn ?

Bài nói rằng ông Mô-sê kêu lên cùng Chúa: « Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con! » (c4). Chúa trả lời: « Ngươi hãy … cầm lấy cây gậy … Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống » (c5…6). Phần sau câu truyện được kể lại trong sách Dân Số: ông Mô-sê đập vào tảng đá - chính xác là đập hai lần hơn là một lần, có lẽ cho an toàn - và dân chúng được giải khát. Bài chúng ta đọc hôm nay trích từ sách Xuất Hành chỉ viết một cách đơn sơ: « Ông Mô-sê đã làm như vậy trước mắt các kỳ mục Ít-ra-en » (c6)

Nước tuôn ra trước tiên làm giải khát và đấy cũng là một sự khuây khỏa mối lo vô cùng. Nhưng hơn thế nữa, một xác tín được tìm lại Thiên Chúa vẫn ở đấy « giữa dân Ngài », như người ta thường nói, tức là ở bên cạnh họ và Ngài dẫn dân Ngài trên con đường tìm tự do. Phải nói rằng đó là con đường gay go. Bởi vì có lúc, họ bị cám dỗ tin ngược lại. Tôi nói rõ là bị cám dỗ, vì thật sự họ đã bị sa ngã trước cơn cám dỗ. Họ đi đến tìm ông Mô-sê để nói lên nỗi sợ và bức xúc của họ, họ còn đi đến ngờ vực ý định của ông và cả của Thiên Chúa.

Câu: « Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không? » (c3), có thể muốn nói hai điều. Hoặc muốn nói, ông muốn đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập nhưng ông quá vụng về nhưng không thoát được (nếu để đi đến mệnh hệ này thì thà đừng làm), hay muốn nói tệ hơn nữa: chúng tôi đã hiểu, ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập, ông đưa chúng tôi tận sâu trong hoang địa cho chúng tôi chết khát để ông rảnh tay với chúng tôi. Và đấy là họ kết án ông Mô-sê và nhất là Chúa có những ý không ngay lành. Thay vì tin tưởng, cậy trông và nói « Chúa muốn chúng ta tự do, Chúa sẽ tìm mọi cách cho chúng ta được sống ». Và đấy tại sao nơi này trong ký ức dân tộc Ít-ra-en không được gọi Rơ-phi-đim như một nơi cắm trại trước kia, như tên mọi nơi cắm trại; điều vừa xảy ra quá hệ trọng. « Ông đặt tên cho nơi ấy là Ma-xa và Mơ-ri-va, nghĩa là thử thách và gây sự, vì con cái Ít-ra-en đã gây sự và thử thách ĐỨC CHÚA mà rằng: "Có ĐỨC CHÚA ở giữa chúng ta hay không? » (c7). Theo cách nói đời nay chúng ta có thể nói: « Chúa theo chúng ta, hay chống lại chúng ta ? » 

Trên đây tôi có nói đến « cám dỗ », bị cám dỗ ngờ vực Thiên Chúa. Dân tộc Ít-ra-en trước những khó khăn của sự tranh đấu dành tự do, ngờ vực ý định của Chúa cứu độ. « Ngài đem chúng tôi đến đây để cho chúng tôi chết ». Cơn cám dỗ ấy cũng là cơn cám dỗ của chúng ta: vấn đề lúc nào cũng như thế, luôn luôn như thế vì vậy mà được gọi là « tổ tông », tức là nguồn gốc của mọi sự dữ. Tác giả của bài tường thuật về vườn Địa Đàng chỉ trình bày dưới dạng trải nghiệm Ma-xa và Mơ-ri-va để làm cho chúng ta hiểu ngờ vực Thiên Chúa là đầu độc cuộc sống chúng ta. A-đam đứng trước một điều răn ông không hiểu, nghe tiếng nói của ngờ vực cho rằng Thiên Chúa không muốn điều lành cho nhân loại. Mỗi chúng ta đều thấy khó khăn phải tin tưởng, trông cậy khi gặp thử thách của đau khổ hay những điều răn khó tuân giữ ... Ai nói cho chúng ta biết rằng Chúa muốn cho chúng ta thật sự tự do và hạnh phúc ?

Sở dĩ Chúa Ki-tô dạy Kinh Lạy Cha cho các môn đệ, chính là đặt họ trong bầu khí tin tưởng giữa Cha-con. « Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ », câu này có thể dịch lại: xin gìn giữ chúng con vững mạnh để những Rơ-phi-đim đừng trở nên Mác-xa, hay các bạn có thể chọn: xin đừng để những nơi thử thách trở nên những nơi ngờ vực. Trong khó khăn, tiếp tục gọi Chúa là « Cha », tức là xác nhận Ngài luôn là Ê-ma-nu-en », có nghĩa là « Chúa ở cùng chúng ta »

***

 

THÁNH VỊNH (Tv94, 1-2.6-9)

 

"Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Các ngươi đừng cứng lòng”.

                                 

1 Hãy đến đây ta reo hò mừng CHÚA,
tung hô Người là Núi Đá độ trì ta,

2 vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ,
cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.

6 Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục,
quỳ trước tôn nhan CHÚA là Đấng dựng nên ta.

7 Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ,
còn ta là dân Người lãnh đạo,
là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.
Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!

8 [Người phán]: "Các ngươi chớ cứng lòng
như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc,

9 nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức
và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.

 

Nếu các bạn vào Thánh Kinh kiểm tra đoạn chót bài chúng ta đọc, các bạn sẽ tìm thấy« Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! 8 [Người phán]: "Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, 9 nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm. » (c7-9). Chúng ta hiểu vì sao phụng vụ đề nghị chúng ta hát trong Chúa nhật thứ III Mùa Chay này, như một tiếng vang của Bài đọc Một về Mơ-ri-va và Ma-xa.

Vỏn nẹn trong đoạn này, được tóm gọn cả cuộc phiêu lưu đức tin của chúng ta, đức tin cá nhân cũng như của cộng đồng. Đó là điều tôi gọi là « vấn đề tín nhiệm », đúng nghĩa của nó. Đối với dân Ít-ra-en, dân tộc vừa được Thiên Chúa giải thoát khỏi nô lệ Ai-cập (điều Thánh vịnh gọi là « những việc Ta làm »). Vấn đề tín nhiệm ấy được đặt ra mỗi lần gặp khó khăn trong đời sống trong sa mạc: « Có ĐỨC CHÚA ở giữa chúng ta hay không? » (Xh 17, 7), nói cách khác, chúng ta có nên tin tưởng nơi Ngài hay không ? nương tựa nơi Ngài, chắc chắn Ngài sẽ cho chúng ta phương tiện để giải thoát ? Đức tin chính xác chỉ là vấn đề tín nhiệm: Thiên Chúa đã cực lòng giải thoát dân Ngài khỏi ách nô lệ, chẳng nhẽ bây giờ để cho họ chết đói chết khát trong hoang địa.

Đối với A-đam - có nghĩa là đối với mỗi chúng ta - vấn đề tín nhiệm được đặt ra dưới hình thức một cản trở nào đó, một giới hạn của những ham muốn của chúng ta (ví dụ như bệnh hoạn, khuyết tật, viễn ảnh của sự chết). Cũng có thể một giới răn phải tuân theo, có vẻ giới hạn tự do chúng ta, vì giới hạn những thèm muốn chiếm hữu hay quyền lực… Lúc ấy đức tin là tin tưởng Chúa muốn chúng ta tự do, sống hạnh phúc mặc dù bên ngoài có lẽ đi ngược lại. Và từ những tình huống thất bại, không thỏa mãn, chết chóc, Chúa làm bật ra tự do, viên mãn, phục sinh. Đối với vài người trong chúng ta, vấn đề tín nhiệm ấy đặt ra mỗi lần không tìm thấy giải đáp cho những vấn nạn của chúng ta. Chấp nhận không hiểu hết mọi sự, chấp nhận con đường của Thiên Chúa có khi chúng ta không thể theo được, đôi khi đòi hỏi nơi chúng ta một sự tín nhiệm như trao một ngân phiếu đã được chúng ta ký tên mà còn để trống số tiền. Chỉ còn cách nói như Thánh Phê-rô nói tại Xê-da-rê: « Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời » (Ga 6, 68). Khi Thánh Phao-lô viết cho tín hữu Cô-rin-tô: « nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hoà giải với Người » (2Cr 5, 17), có thể hiểu, đừng gán cho Ngài những ý định xấu, hay khi Thánh Mác-cô viết trong Phúc Âm: « Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. » (Mc 1, 15) chúng ta có thể hiểu: hãy tin vào Tin Mừng, tức là hãy tin Thiên Chúa yêu bạn, Ngài chỉ có lòng yêu thương bạn.

Sự quyết tâm chọn tín nhiệm, phải lập lại hằng ngày: « Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! » (c7). Đọc câu này tôi cảm thấy được giải thoát: mỗi ngày là một ngày mới; hôm nay mọi sự đều có thể trở lại khả thi. Mỗi ngày chúng ta phải tập lắng nghe, có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm nơi Chúa: vì thế bài thánh vịnh 94 này là bài đầu tiên trong Kinh Phụng vụ buổi sáng. Cũng vì lý do ấy, những người Do Thái sốt sắng, hằng ngày đọc hai lần một loại kinh Tin Kính (Shema Ít-ra-en) bắt đầu bằng chữ Hãy lắng nghe: « Hỡi Ít-ra-en hãy lắng nghe, Chúa ngươi là Thiên Chúa DUY NHẤT. Hãy yêu Thiên Chúa, Chúa của ngươi, hết lòng hết sức trên hết mọi sự ». Hãy yêu tức là tin tưởng nơi Ngài. Nương tựa nơi Ngài như tựa trên núi đá: « tung hô Người là Núi Đá độ trì ta » (c1), đây không phải là vì thơ phú mà một lời tuyên xưng đức tin. Một đức tin dựa vào trải nghiệm từ trong sa mạc: ở Mơ-ri-va và Ma-xa dân chúng ngờ vực Thiên Chúa, không biết Ngài có cho họ điều kiện để sống sót hay không. Mặc dù như thế Chúa vẫn cho nước chảy ra từ tảng đá; và từ nay mọi người thường nhắc lại giai đoạn ấy nói Chúa là Núi Đá Ít-ra-en. Và các bạn hẳn biết chữ Amen nói lên sự đồng tình với lòng tin, còn có nghĩa là « cứng cỏi – vững vàng », có thể dịch là tôi tin vững vàng như tảng đá (người Pháp nói lòng tin sắt đá).

Tôi xin trở lại nhận xét mọi đức tin dựa vào ký ức những trải nghiệm: có phải điều này giải thích anh chị em đương thời chúng ta khó có đức tin ? Nếu họ không có trải nghiệm sống giữa một cộng đồng tín hữu, để lòng tin có thể dựa vào ? Dường như nghĩ như thế đặt trách nhiệm nơi mỗi chúng ta. Ý thức thuộc về một dân tộc là một ý thức sâu sắc nơi dân Ít-ra-en, và điều này chúng ta còn phải học nơi họ. Khi bài thánh vịnh 94 này hát lên: « ta là dân Người lãnh đạo» (c7), câu này cũng thế, không chỉ là một câu thơ đẹp, nhưng để nói lên trải nghiệm dân tộc Ít-ra-en. Trong suốt lịch sử của họ, có thể nói Ít-ra-en là chỉ định tất cả mọi người.

Ở đây chúng ta chạm phải một vấn nạn của Giáo Hội đương thời. Bài thánh vịnh viết: « Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan CHÚA là Đấng dựng nên ta » (c6) (ngụ ý nói không đòi hỏi mức độ nhạy cảm với đức tin từng người chúng ta); đây là một dân tộc đến gặp gỡ Thiên Chúa của họ… « Hãy đến đây ta reo hò mừng CHÚA, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta! »  (c1), và Chúa sẽ ban cho đức tin.

***

 

BÀI ĐỌC 2 (Rm 5, 1-2.5-8)

 

"Lòng mến Chúa đổ xuống lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần là Đấng đã được ban cho chúng ta."

Trích thư Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Rô-ma

 

1 Vậy, một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

2 Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.

5 Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.

6 Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta.

7 Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng.

8 Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.

 

Muốn hiểu bài này phải đặt thư Thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma đúng vào vị trí của nó. Chúng ta đang ở một khúc quanh của thư này, kết luận cho phần đầu, suy niệm về tội lỗi thế gian. Và đối với Thánh Phao-lô, tội lỗi chỉ là trái ngược với cậy trông vào Thiên Chúa, ngược lại với đức tin. Có thể nói đối với ngài tội lỗi là ngờ vực; qua tường thuật về tội của A-đam thánh nhân hiểu như thế. Dĩ nhiên, thế thì nếu tội lỗi là ngờ vực Thiên Chúa thì tội lỗi tách rời khỏi Thiên Chúa, không thể nào cứu vãn được; như thể mối hiệp thông bị cắt đứt. Tôi xin trở lại bài tường thuật trong sách Sáng Thế: Thiên Chúa thổi vào con người sự sống; hình ảnh ấy thật tuyệt vời… Hẳn các bạn có trước mắt hình ảnh bích họa của Michel-Ange: ngón tay Thiên Chúa chạm vào ngón tay con người.

Tác giả sách Sáng Thế đề nghị một hình ảnh khác, cũng đẹp như thế: chúng ta được treo bám vào hơi thở của Chúa. Bao lâu chúng ta còn được treo vào hơi thở của của Ngài - tức là chúng ta chấp nhận sự lệ thuộc của chúng ta và những giới hạn của chúng ta - lúc ấy chúng ta có thể sống thanh thản. Và ở đây bài tường thuật sách Sáng Thế còn có một hình ảnh rất gợi cảm; bài nói « Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau » (St 2, 25) .

Sự trần truồng lúc nào cũng tế nhị, mong manh; nhưng mong manh khi chúng ta an toàn thì không có gì nguy hiểm. Không cần phải bảo vệ; sự « trần truồng » tức là sự mong manh của chúng ta vẫn yên bình. Trái lại, khi chúng ta mất tín nhiệm nơi Thiên Chúa, chúng ta tự xa cách với Ngài, chúng ta không còn bám treo vào hơi thở của Ngài. Vì thế sách Sáng Thế nói đến sự chết. Trong chiều kích nhỏ bé của chúng ta, chúng ta biết rằng điều giết chết mối bang giao là khi sự ngờ vực bắt đầu. Và cũng ở đây, bài dùng hình ảnh thứ hai: người nam và người nữ không còn sống trong tin cậy nữa, họ lấy lá che thân. Một khi ngờ vực, thì không còn có thể sống thanh thản với sự mong manh của chúng ta nữa, lúc ấy ta tìm cách tự bảo vệ, che thân. Cũng sự ngờ vực ấy nơi A-đam chúng ta gặp lại trong Mác-xa và Mơ-ri-va đó là Bài Đọc Một Chúa nhật thứ III Mùa Chay năm nay: đứng trước những khó khăn trong sa mạc, đặc biệt nạn khát, dân chúng nghĩ « Chúa muốn chúng ta chết ». Trái hẳn lại, Chúa Giê-su Ki-tô, vẫn một lòng cậy trông, bất cứ điều gì có thể xảy ra, vẫn treo mình bám vào hơi thở của Thiên Chúa: ví dụ chúng ta thấy trong đoạn Chúa bị cám dỗ trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu phần đầu chương 4: « Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra » Hay là  « Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi » và sau cùng « Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi ». Và khi Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu nguyện: « Chúng con nguyện… nước Cha trị đến », Ngài ngụ ý nói, vì ý Cha luôn tốt lành, không lúc nào Ngài ngờ vực ý định Thiên Chúa. Ngay trong vườn Gét-xê-ma-ni, Ngài còn nói: « Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn. » (Mc 14, 36), câu này ngụ ý nói, vì ý Cha lúc nào cũng tốt thôi. Và bởi vì Ngài sống bám treo theo hơi thở Thiên Chúa, Ngài được sống do hơi thở ấy, ngay qua cả cái chết thể lý. Vì lẽ ấy Ngài phục sinh. Và như ông Mô-sê làm môi giới giữa dân Chúng và Thiên Chúa, Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng trung gian, Ngài tái lập lại nguồn hiệp thông: « chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa » (c1.2)

Nhất là không nên xem đó như một sự tính toán phần thưởng; như nhờ thái độ tốt lành của Chúa Giê-su làm cho Ngài xứng đáng được thưởng, từ đó toả ra cho chúng ta. Đối với Thiên Chúa, Ngài chính là tình yêu, không có vấn đề tính toán. Ngay chúng ta, chúng ta tuy không biết yêu thương chi lắm, chúng ta cũng biết nói tình yêu không tính toán… Vỏn vẹn, bởi vì Ngài mật thiết nối liền với Thiên Chúa, nên Ngài nhận liên tục sự sống của Thiên Chúa, hơi thở của Thiên Chúa. Và chúng ta, bởi Ngài chúng ta: « hưởng ân sủng của Thiên Chúa» (c2). Chúng ta có khuynh hướng hỏi vì sao thế: vì ân sủng, tự nó là quà cho nhưng không. Đó mới là điều tuyệt diệu, như Thánh Phao-lô nói trong thư gửi tín hữu Cô-lô-xê: « Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người » (Cl 1, 19). Có nghĩa là nơi Chúa Giê-su Ki-tô, treo bám vào Thiên Chúa sẽ được Chúa Thánh Thần ban cho sự sống: « Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. » (c5), Thánh Phao-lô nói.

Qua đoạn này tôi xin lưu ý hai điều. Bài này nêu bật tính Ba Ngôi Thiên Chúa, như thường gặp nơi Thánh Phao-lô: Chúa Cha làm cho chúng ta công chính, Chúa Giê-su mang lại ân sủng cho chúng ta, tức là trong tình yêu Thiên Chúa, Thánh Thần Chúa được ban cho chúng ta và Ngài tràn đầy nơi ta chính tình yêu Thiên Chúa. Điều đáng lưu ý thứ hai là: lời Thánh Phao-lô dùng, được viết theo thể quá khứ. Thiên Chúa đã làm cho chúng ta công chính, Chúa Giê-su Ki-tô đã ban cho chúng ta, Thánh Thần Chúa đã được ban xuống cho chúng ta. Đó là điều chắc chắn rồi. Có nghĩa là có hai yếu tố: đã cho rồi - chỉ cần chúng ta lãnh nhận món quà, một cách nào đó, dù chúng ta có xứng đáng hay không. Điều này làm chúng ta an tâm, có ai trong chúng ta dám cho mình xứng đáng điều chi không ? Cũng không phải Thánh Phao-lô cho chúng ta một bài học luân lý, đại loại như « hãy xứng đáng với thực tế ấy ». Thánh Phao-lô chọn cách nói với chúng ta: « Hãy nhận lãnh món quà, tạ ơn và sống với nó…. Món quà ấy chính nó sẽ biến đổi bạn… ». Nhưng tôi tự hỏi tại sao chúng ta khó chấp nhận ân sủng là quà được ban cho nhưng không, đến thế ?

***

 

PHÚC ÂM (Ga 4, 5-42)

 

Câu xướng: Lạy Chúa, Chúa là Đấng cứu chuộc thế gian;
xin ban cho con nước hằng sống, để con không còn khát nữa.

-----------------

"Mạch nước vọt đến sự sống đời đời."

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.

 

Vậy, Người đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se.

6 Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.

7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống! "

8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn.

9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: "Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao? " Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri.

10 Đức Giê-su trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: "Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống."

11 Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?

12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy."

13 Đức Giê-su trả lời: "Ai uống nước này, sẽ lại khát.

14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời."

15 Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước."

16 Người bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây."

17 Người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng." Đức Giê-su bảo: "Chị nói: "Tôi không có chồng" là phải,

18 vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng."

19 Người phụ nữ nói với Người: "Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ. ..

20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa."

21 Đức Giê-su phán: "Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem.

22 Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái.

23 Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.

24 Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật."

25 Người phụ nữ thưa: "Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự."

26 Đức Giê-su nói: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây."

27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: "Thầy cần gì vậy? " Hoặc "Thầy nói gì với chị ấy? "

28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta:

29 "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao? "

30 Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.

31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: "Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa."

32 Người nói với các ông: "Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết."

33 Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng? "

34 Đức Giê-su nói với các ông: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.

35 Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!

36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng.

37 Thật vậy, câu tục ngữ "kẻ này gieo, người kia gặt" quả là đúng!

38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ."

39 Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm.

40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày.

41 Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa.

42 Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian."


Ngày nay, nước máy mang lại nhiều lợi ích. Chúng ta không còn những cuộc gặp gỡ bên bờ giếng: giếng nước giữa sa mạc hay giếng nước trong làng. Biết bao nhiêu mối giao kết được thắt nối bên bờ giếng, bao nhiêu cuộc hôn nhân trong Thánh Kinh? Cũng bên bờ giếng nước người làm thuê cho ông Áp-ra-ham đã gặp Rê-béc-ca, sau này trở nên vợ của I-sa-ắc; bên bờ một giếng nước ông Gia-cóp phải lòng với Ra-khen; bên bờ một giếng nước xứ Pa-lét-tin Chúa Giê-su bắt đầu một cuộc đàm thoại nổi tiếng nhất trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an, cuộc đàm thoại với một người gọi là người phụ nữ Sa-ma-ri.

Chúa Giê-su đi ngang qua vùng Sa-ma-ri, trên đường đi đến Ga-li-lê. Chúa lìa xứ Giu-đa, ở đấy các người Pha-ri-sêu bắt đầu dò xét Ngài. « Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa. » Tại sao Thánh Gio-an nói rõ giờ lúc ấy ? Có phải là giờ đi lấy nước giếng hay là giờ sáng nhất và ánh sáng thế gian vừa chiếu rọi xuống xứ Sa-ma-ri, mặc khải Đấng Mê-si-a ?

Vì dưới mắt các người Pha-ri-sêu, Sa-ma-ri là nơi cần phải hoán cải nhất. Mối bất hòa giữa Giu-đa và Sa-ma-ri đã từ lâu: khởi đầu từ quân xâm lược Át-sua đánh chiếm (các bạn có thể gọi quân Ni-ni-vơ). Thành phố Sa-ma-ri bị đánh chiếm năm 721 trước CN, lúc ấy Giê-ru-sa-lem còn được ngoài vòng chiến. Thế nhưng chính sách quân chinh phục là áp đặt các cuộc di dân: họ đày dân Sa-ma-ri đi nơi khác và cho các dân bị thua trận nơi khác vào cư ngụ trong thành và xứ Sa-ma-ri. Thư Thứ Hai các Vua nói rõ: « Vua Át-sua đã đưa người từ Ba-by-lon, Cu-tha, A-va, Kha-mát và Xơ-phác-va-gim đến định cư ở các thành xứ Sa-ma-ri, thế vào chỗ con cái Ít-ra-en. Họ chiếm Sa-ma-ri và ở trong các thành của xứ này. » (2V 17, 24). Dưới mắt dân Chúa chọn, những người mới đến là những người ngoại, họ du nhập các tôn giáo của họ cùng với các thần thánh của họ. Từ đấy nảy sinh một sự ngờ vực kinh khủng trong dân xứ Giu-đa đối với những người dị giáo này. Sự nghi kỵ càng ngày càng trầm trọng với thời gian, thế kỷ này sang thế kỷ khác, vào thời Chúa Giê-su thì tình trạng ấy được cảm nhận rõ ràng trong tâm trí mọi người. Lý do đó giải thích thái độ ngạc nhiên người phụ nữ Sa-ma-ri: một người Do Thái mà hạ mình hỏi xin mình một điều gì ?

Nhưng chỉ cần bà lắng nghe, Chúa Giê-su có thể đề nghị cho một món quà thật sự: « Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị » (c10). Ân huệ Thiên Chúa là chính Chúa Giê-su, là nhận biết Ngài. Chúa Giê-su còn lặp lại trong lời cầu nguyện cuối cùng, cũng trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an: « Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô. » (Ga 17, 3). Mặc dù họ là những người dị giáo trước mắt những người Pha-ri-sêu, người Sa-ma-ri cũng chờ đợi Đấng Mê-si-a, và họ biết rằng Ngài sẽ đến mặc khải cho họ mọi thứ. Người phụ nữ Sa-ma-ri nói với Chúa Giê-su: « Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự. » (Ga 4, 25a). Chỉ cần vỏn vẹn chị chấp nhận đối thoại, vì chị cởi mở, vì chị thành tâm hỏi để muốn biết làm gì để vui lòng Thiên Chúa, là chị sẽ được mặc khải về Đức Mê-si-a: « Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây » (Ga 4, 25b).

Suốt bài tường thuật Thánh Gio-an cho chúng ta hiểu, với Đấng Mê-si-a đến, mặt thế giới sẽ được thay đổi: mọi vấn nạn sẽ có giải đáp, thời gian được hoàn tất. Thời điểm tất cả lịch sử nhân loại nhắm tới đã đến. Kể từ nay việc tôn thờ Thiên Chúa không còn là vấn đề nơi chốn, đền thờ, hay núi này núi nọ. Nước hằng sống sẽ vọt lên từ đáy lòng người có lòng tin: « Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." » (c14). Hẳn các bạn chú ý Chúa Giê-su nhấn mạnh ở chữ « cho »:  đối với Thiên Chúa tình yêu, mọi sự là quà cho nhưng không, là tha thứ. Người phụ nữ Sa-ma-ri biết mình kém nhân đức, đơn sơ đón nhận (có lẽ đơn sơ hơn nhiều người ?) món quà và sự tha thứ. Và khi Chúa Giê-su nói mạch nước vọt lên từ lòng người tín hữu, từ nay nước ấy có thể làm cho người khát không còn khát nữa. Dù sao đó là những gì người phụ nữ Sa-ma-ri cảm nhận và chị đi loan báo khắp thành cho họ biết: « Người thật là Đấng cứu độ trần gian. » (Ga 5, 42)

***

 

Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions


Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân

Hiệu đính: Nguyễn Thế Hoằng.

 


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com