BÀI ĐỌC 1 (Ed 33, 7-9)
"Nếu người không chịu nói cho kẻ gian ác, thì Ta đòi máu nó bởi tay ngươi."
Trích sách Tiên tri Ê-dê-ki-en
7 Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết.
8 Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: "Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết", mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó.
9 Ngược lại, nếu ngươi đã báo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại, nhưng nó không trở lại, thì nó sẽ phải chết vì tội của nó; còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống mình.
Lúc bấy giờ, vào thế kỷ thứ sáu, tiên tri Ê-dê-ki-en là tư tế tại thành Giê-ru-sa-lem. Ông bị quân đội của Na-bu-cô-đô-nô-so triệu về Ba-by-lon, trong đợt đầu bị đi đày, vào năm 597 trước CN. Nơi ấy, trên bờ sông Kê-ba, trong một làng tên gọi là Tel-Aviv, ông mới được biết những đau khổ đã giáng xuống thành Thánh. Vào năm 587, tất cả đã kết thúc, thành phố bị san bằng, Đền Thánh bị sụp đổ.
Nhưng, đứng trước lời tường thuật những cảnh tượng tai họa liên tục, ông không bó tay. Ngay khi ông tới bên ấy, trong hai mươi năm đầu đời sống đày đọa (mười năm trước và mười năm sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị sụp đổ), ông dùng hết nỗ lực để duy trì lòng cậy trông nơi dân ngài. Muốn làm được như thế, ông phải tranh đấu trên hai chiến trường. Trước tiên, phải lo chuyện sống còn; điều thứ hai, phải giữ trọn vẹn niềm tin, để một ngày sẽ hồi hương. Đó là hai mục tiêu của ngôn sứ Ê-dê-ki-en suốt trong sách của ngài, và đó là hai trục các bài rao giảng của ngài. Thiên Chúa đã chỉ định mục tiêu mới của sứ mạng làm ngôn sứ của ngài: «Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en» (c7)
Ê-dê-ki-en chu toàn hai sứ vụ canh gác : Một đàng canh giữ Lời Chúa, một đàng canh gác rạng đông, rồi thế nào rạng đông cũng sẽ đến cho dân tộc ngài. Vừa là nhà thơ, có tầm nhìn, vừa can đảm, ngài phải đối đầu với tư tưởng tiêu cực của người đương thời, thối chí trước thực tế, ngài phải loan báo bằng những lời lẽ tuyệt vời và vô cùng sống động, một sứ điệp mà họ phải nghe hầu tìm lại nghị lực để sống sót chờ ngày về: «Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en» (Ed37, 12) Người canh gác - thật là một định nghĩa tốt đẹp cho vị tiên tri - được chỉ định đọc trong lịch sử những dấu chỉ để cậy trông. Vì Chúa còn cậy trông nơi dân Ngài chọn: «Ta lấy mạng sống Ta mà thề -sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng- Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống. Hãy trở lại, hãy từ bỏ đường lối xấu xa của các ngươi mà trở lại. Sao các ngươi lại muốn chết, hỡi nhà Ít-ra-en?» (13, 11)
Ngôn sứ: quả thật là một trách nhiệm nặng nề, các cảnh báo của ngài như là để «cứu trợ người lâm nguy» Thế nhưng, nào có phải khi nhận phép rửa tội, chúng ta cũng được nghe như là một «dân tộc ngôn sứ». Sách Lê-vi từng nói, mọi người dân đều có sứ mạng tương tự: «Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.17 Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó.» (Lv19, 2.17). Phải trải qua nhiều thế kỷ, dân chúng mới hiểu những quan niệm «thánh đức» và «yêu thương» là đồng nghĩa. «Thánh», hẳn các bạn còn nhớ lời tiên tri I-sa-i-a. Trong chương 6, ngài kể cho chúng ta ơn gọi của ngài, và ngài nhận được một thị kiến như thế nào trong lúc đang trong Đền Giê-ru-sa-lem, bị chói loà mắt, ngài chỉ còn biết kêu lên: «Thánh! Thánh! Chí Thánh! ĐỨC CHÚA các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!» (Is6, 3) Chữ Thánh ở đây có nghĩa: Thiên Chúa là đấng siêu việt, có một hố sâu chia cách Ngài và chúng ta. Đồng thời ông I-sa-i-a nhận được một mặc khải: Cái hố sâu ấy, chính Chúa vượt qua được, và vì thế, khi Ngài mời gọi giống hình ảnh Ngài, là chúng ta cũng có thể vượt qua…nhờ Ngài, dĩ nhiên - hay có thể nói trong ân nghĩa của Ngài.
Tiếp theo áp dụng câu: «Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh.» (1Pr1, 16). Trên thực tế đó là «Ngươi không được để lòng ghét người anh em,» (Lv19, 17a)…Nói cách khác, người hãy yêu mến. Đó là giống hình ảnh Thiên Chúa: Ngài không bao giờ biết oán thù. Chính vì Ngài là tình yêu, nên là Đấng Siêu Việt. Và chỉ từ từ, mỗi ngày một ít, các ngôn sứ làm cho dân chúng hiểu, giống hình ảnh Thiên Chúa chí Thánh, đơn giản là phát huy khả năng yêu thương.
Điều này không phải đánh mất đi khả năng phân định những gì sai quấy: «Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó.» (Lv19, 17): Quở trách đúng đắn, đây là một nghệ thuật rất khó. Nhưng đây cũng là tình yêu. Muốn điều tốt lành cho kẻ khác, nếu cần, phải biết ngăn nó trước bờ vực thẳm. Phê bình một cách tích cực làm triển nở tình yêu. Công việc khó nhất của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là như thế đó: Khi đặt một người lính canh ở chốt bảo vệ, há chẳng phải để cứu cả thành trì sao ?
***
THÁNH VỊNH (Tv 94, 1-2.6-9)
Đáp ca: «Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Các ngươi đừng cứng lòng»
1 Hãy đến đây ta reo hò mừng CHÚA,
tung hô Người là Núi Đá độ trì ta,
2 vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ,
cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.
6 Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục,
quỳ trước tôn nhan CHÚA là Đấng dựng nên ta.
7 Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ,
còn ta là dân Người lãnh đạo,
là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.
Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!
8 [Người phán]: "Các ngươi chớ cứng lòng
như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc,
9 nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức
và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.
(LND: Bài Tv này chúng ta đã nghe chúa nhật thứ ba Mùa Chay năm A, vì vậy chúng tôi xin chép lại bài suy niệm ngày ấy)
Nếu các bạn vào Thánh Kinh, kiểm tra đoạn chót bài chúng ta đọc, sẽ tìm thấy: «Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! 8 [Người phán]: "Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, 9 nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.» (c7-9). Chúng ta hiểu, vì sao phụng vụ đề nghị hát trong Chúa nhật thứ III Mùa Chay này, như một tiếng vang của Bài đọc 1 về Mơ-ri-va và Ma-xa.
Vỏn vẹn trong đoạn này, được tóm gọn cả cuộc phiêu lưu đức tin chúng ta, đức tin cá nhân cũng như cộng đồng. Đó là điều tôi gọi: «vấn đề tín nhiệm», đúng nghĩa của nó. Đối với dân Ít-ra-en, dân tộc vừa được Thiên Chúa giải thoát khỏi nô lệ Ai-cập (điều Thánh vịnh gọi là «những việc Ta làm »). Vấn đề tín nhiệm ấy, được đặt ra mỗi lần gặp khó khăn trong đời sống ở sa mạc: «Có ĐỨC CHÚA ở giữa chúng ta hay không?» (Xh 17, 7), nói cách khác, có nên tin tưởng nơi Ngài hay không? Nương tựa nơi Ngài, chắc chắn Ngài cho chúng ta phương tiện để giải thoát? Đức tin, chính xác chỉ là vấn đề tín nhiệm: Thiên Chúa đã cực lòng giải thoát dân Ngài khỏi ách nô lệ, chẳng lẽ bây giờ để cho họ chết đói chết khát trong hoang địa.
Đối với A-đam - có nghĩa là đối với mỗi chúng ta - vấn đề tín nhiệm được đặt ra dưới hình thức một cản trở nào đó, một giới hạn những ham muốn (ví dụ như bệnh hoạn, khuyết tật, viễn ảnh của sự chết). Cũng có thể một giới răn phải tuân theo, gần như giới hạn tự do chúng ta, hạn chế những thèm muốn chiếm hữu hay quyền lực…Lúc ấy đức tin là tin tưởng, Chúa muốn chúng ta tự do, sống hạnh phúc, mặc dù bên ngoài có lẽ đi ngược lại. Và từ những tình huống thất bại, không thỏa mãn, chết chóc, Chúa làm bật ra tự do, viên mãn, phục sinh. Đối với vài người, vấn đề tín nhiệm ấy đặt ra khi mỗi lần không tìm thấy giải đáp những vấn nạn của chúng ta. Chấp nhận không hiểu hết mọi sự, chấp nhận con đường Thiên Chúa, có khi không thể theo được. Đôi khi đòi hỏi nơi chúng ta một sự tín nhiệm, như trao một ngân phiếu đã được ký tên mà để trống số tiền. Chỉ còn cách, như Thánh Phê-rô nói tại Xê-da-rê: «Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời» (Ga 6, 68). Khi Thánh Phao-lô viết cho tín hữu Cô-rin-tô: «nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hoà giải với Người» (2Cr 5, 17), có thể hiểu, đừng gán cho Ngài những ý định xấu, hay khi Thánh Mác-cô viết trong Phúc Âm: «Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.» (Mc1, 15) chúng ta có thể hiểu: hãy tin vào Tin Mừng, tức là hãy tin Thiên Chúa yêu bạn, Ngài chỉ có lòng yêu thương bạn.
Sự quyết tâm chọn tín nhiệm, phải lập lại hằng ngày: «Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!» (c7) Đọc câu này, tôi cảm thấy được giải thoát: Mỗi ngày là một ngày mới; hôm nay mọi sự đều khả thi trở lại. Mỗi ngày, chúng ta phải tập lắng nghe, có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm nơi Chúa: Vì thế bài Thánh vịnh 94 này, bài đầu tiên trong Kinh Phụng vụ buổi sáng. Cũng vì lý do ấy, những người Do Thái sốt sắng, hằng ngày đọc hai lần một loại kinh Tin Kính (Shema Ít-ra-en) bắt đầu bằng chữ Hãy lắng nghe: «Hỡi Ít-ra-en hãy lắng nghe, Chúa ngươi là Thiên Chúa DUY NHẤT. Hãy yêu Thiên Chúa, Chúa của ngươi, hết lòng hết sức trên hết mọi sự». Hãy yêu, tức là tin tưởng nơi Ngài. Nương tựa nơi Ngài, như tựa trên núi đá: «tung hô Người là Núi Đá độ trì ta» (c1), đây không phải là thơ phú, mà một lời tuyên xưng đức tin. Một đức tin dựa vào trải nghiệm từ trong sa mạc: Ở Mơ-ri-va và Ma-xa, dân chúng ngờ vực Thiên Chúa, không biết Ngài có cho họ điều kiện để sống sót hay không? Dù như thế, Chúa vẫn cho nước chảy ra từ tảng đá; và từ nay, mọi người thường nhắc lại giai đoạn ấy, nói Chúa là Núi Đá Ít-ra-en. Và các bạn hẳn biết chữ Amen nói lên sự đồng tình với lòng tin, còn có nghĩa là: «cứng cỏi – vững vàng», có thể dịch là: Tôi tin vững vàng như tảng đá (người Pháp nói lòng tin sắt đá).
Xin trở lại nhận xét, mọi đức tin dựa vào ký ức những trải nghiệm: Có phải điều này giải thích anh chị em đương thời chúng ta khó có đức tin? Nếu không có trải nghiệm sống giữa một cộng đồng tín hữu, để lòng tin có thể dựa vào. Với ý nghĩ dường như vậy, đặt trách nhiệm nơi mỗi chúng ta. Ý thức thuộc về dân tộc, là một ý thức sâu sắc nơi dân Ít-ra-en, và điều này còn phải học nơi họ. Khi bài thánh vịnh 94 hát lên: «ta là dân Người lãnh đạo» (c7), câu này cũng thế, không chỉ là một câu thơ đẹp, nhưng nói lên trải nghiệm dân tộc Ít-ra-en. Trong suốt lịch sử của họ, có thể nói Ít-ra-en là chỉ định tất cả mọi người.
Ở đây, chạm phải một vấn nạn của Giáo Hội đương thời. Bài thánh vịnh viết: «Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan CHÚA là Đấng dựng nên ta» (c6) (ngụ ý nói không đòi hỏi mức độ nhạy cảm với đức tin từng người chúng ta); đây là một dân tộc đến gặp gỡ Thiên Chúa của họ… «Hãy đến đây ta reo hò mừng CHÚA, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta!» (c1), và Chúa sẽ ban cho đức tin.
***
BÀI ĐỌC 2 (Rm 13, 8-10)
"Yêu thương là chu toàn cả Lề Luật."
Trích thư Thánh Phao-lô Tông-đồ gửi tín hữu Rô-ma
8 Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật.
9 Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
10 Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.
Hình như hai câu này trong Thư Thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma, chỉ là một, để một lần nữa nói lên giới răn yêu thương người lân cận. Thế nhưng, nếu đặt câu này vào văn cảnh của bài đọc, chúng ta thấy Thánh Phao-lô nói lên quan điểm của mình cho một vấn đề vốn là đề tài hay tranh luận. Chúng ta đang ở chương 13 của Thánh thư. Sau khi nhấn mạnh rất dài trong chương trước đó, người Ki-tô phải tôn vinh Thiên Chúa suốt đời mình bằng «của lễ …thánh thiện» (Rm12, 1), Thánh Phao-lô còn cụ thể đi sâu hơn vào đời sống xã hội, đó là mối quan hệ với chính quyền. Nếu đọc toàn chương 12, rất ngạc nhiên nhận thấy rằng Thánh nhân có những chi tiết về những nghĩa vụ công dân: Tôn trọng các toà án, trả thuế và công phí, tuân giữ mọi thành phần chính quyền.
Ngay từ đầu, ngài quả quyết: «Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập» (Rm13, 1). Trong khi ai cũng biết chính quyền ở đây là hoàng đế Rô-ma và tất cả giai cấp các quan toàn quyền, quan tòa và quân nhân. Nhất là thư này được viết dưới triều đại vua Nê-ron, những lời như thế này, hẳn không có người nào không khiếp đảm!
Thật vậy, mối quan hệ giữa cộng đồng tiên khởi này với chính quyền, đặt ra một vấn đề lương tâm nghiêm trọng đối với vài người. Thánh Phao-lô viết trong chương trước đó: «Anh em đừng có rập theo đời này» (Rm12, 2). Như thế có mâu thuẫn không? Vấn đề ở đây không chỉ trên phương diện thực tế mà còn về thần học nữa. Bổn phận vâng lời Chúa, có thể đi đôi với vâng phục chính quyền, ít nhiều bị nghi ngờ không xứng đáng, hay không? Điều này đặt vấn đề cho những Ki-tô hữu đến từ Do-thái Giáo: Giáo thuyết được Thánh Phao-lô trình bày không khỏi gây nên một vấn đề lương tâm tế nhị. Lịch sử It-ra-en mặc dù được đánh dấu bởi những đổi thay đột ngột về chính trị, nhưng Luật Mô-sê lúc nào cũng vẫn tiếp tục được duy trì, trong đời sống dưới quyền bính duy nhất từ Thiên Chúa. Chúng ta còn nhớ câu sau đây của Chúa Giê-su nói cho đám đông và cho các môn đệ Ngài: «Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy.3 Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ» (Mt23, 1) Có thể nào tuân theo một chính quyền thấm nhuần ngẫu tượng giáo sao?
Trong nhiều câu trước những câu chúng ta đọc hôm nay, Thánh Phao-lô nhấn mạnh những điều chính quyền dân sự cần phải phục vụ: «3 Thật thế, làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ. Bạn muốn khỏi phải sợ chính quyền ư? Hãy làm điều thiện, và bạn sẽ được họ khen ngợi,4 vì chính quyền là người thừa hành của Thiên Chúa để giúp bạn làm điều thiện. Nhưng nếu bạn làm điều ác, thì hãy sợ, vì họ mang gươm không phải không có lý do. Thật vậy, họ là người thừa hành của Thiên Chúa để giáng cơn thịnh nộ của Người xuống kẻ làm điều ác.5 Vì lẽ đó, cần thiết phải phục tùng, không những vì sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm » (Rm13, 3-5)
Ở đây, Thánh Phao-lô tuyên bố không có mâu thuẫn giữa luật đời và luật Mô-sê, vì luật dân sự phục vụ cho đời sống xã hội và công chính; trong lúc luật Mô-sê cuối cùng không đòi hỏi gì khác hơn là yêu thương lẫn nhau: «ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật.» (c8). Ngài trích những lời tuyên bố tối quan trọng của Luật Mô-sê, theo những gì được viết trong sách Sáng Thế (St20, 13-17), sách Đê-nhị luật (Đnl5, 17-21) và nhất là sách Lê-vi chương 19, trong ấy có cả một loạt nguyên tắc hành động rất cụ thể và chính xác được đặt ra (liên quan đến mùa gặt, lúc thu hoạch hoa trái và toàn thể đời sống thường nhật) được tóm lược trong quy tắc vàng : «Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.» (Lv19, 18). Vì thế, Thánh Phao-lô cũng có thể kết luận rằng tôn trọng luật dân sự là một đòi hỏi của tình yêu, đại thể ngài theo những đường nét lớn trong sự trung tín với Luật Mô-sê: «yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy»
***
PHÚC ÂM (Mt 18, 15-20)
Alleluia, alleluia!
- Chúa phán: «Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.» Alleluia.
-------------------
«Nếu nó nghe ngươi thì ngươi lợi được người anh em»
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mát-thêu.
15 "Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em.
16 Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân.
17 Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.
18 "Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.
Hiệp lời cầu nguyện
19 "Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho.20 Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ."
Trong Bài đọc 2 Chúa nhật hôm nay, Thánh Phao-lô nói: «Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm13,8). Tất cả chương 18 Tin Mừng hôm nay theo Thánh Mát-thêu, chúng ta được nghe một đoạn. Triển khai dưới nhiều góc độ sự chu toàn tình yêu ấy, Ngài đề cập đặc biệt hai đề tài: Ưu tiên cho những người bé nhỏ và yếu hèn, cùng sự tha thứ cho nhau. Ngay trước đoạn được đọc, Chúa Giê-su kể bài dụ ngôn con chiên lạc, Ngài kết luận rằng: «Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.» (Mt18, 14). Từ nay, Chúa trao lại sự cảnh giác cho nhau ấy về các môn đệ Ngài: Đừng để ai phải hư mất.
Chúng ta nhận ra nơi đây như tiếng vang bài học lớn dành cho các chủ chăn It-ra-en và mỗi người trong dân chúng, được xem như những con chiên: «Khốn cho các mục tử Ít-ra-en…Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc.5 Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, chúng tán loạn.6 Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm.» (Ed34, 2…6) Nhưng không chỉ những mục tử mới có trách nhiệm về sức khỏe và sự ổn định đoàn chiên mà thôi: Các con chiên cũng có bổn phận với nhau và đáng được nghe một bài học lớn, phần cuối là một lời hứa tuyệt vời: «Này Ta sẽ xét xử giữa chiên béo với chiên gầy.21 Vì các ngươi thúc vào sườn, vào vai và lấy sừng mà húc vào mọi con chiên đau yếu đến độ các ngươi làm cho chúng phải tản mác ra ngoài,22 nên Ta sẽ cứu thoát chiên của Ta để chúng không còn bị cướp phá, Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên. 23 Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng; nó sẽ chăn dắt chúng, đó là Đa-vít, tôi tớ của Ta: chính nó sẽ chăn dắt chúng; chính nó sẽ là mục tử của chúng» (Ed34, 20-23)
Đức Giê-su, Đấng tự giới thiệu như mục tử của Thiên Chúa, Người mục tử nhân lành, biết rõ đoàn chiên mình và được con chiên biết mình (Ga10), Người ban những huấn thị sau đây trong đời sống đoàn chiên, đặc biệt việc anh em giúp đỡ lẫn nhau và cộng đồng làm thế nào để không một ai trong anh em «bị hư mất»: «15 Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em.
16 Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân.
17 Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.»
Để can đảm sửa một người «sai trái», phải có nhiều tình yêu, một tình yêu, trong một cộng đồng lẽ thường phải có. Cũng như trong sách tiên tri Ê-dê-ki-en, ở đây cũng xem như cứu một «nạn nhân hiểm nghèo». Chúa Giê-su đưa ra quy tắc vàng của Ngài: Trước hết, phải đích thân tìm đối thoại trước khi nói với người khác, có lẽ để tránh làm trầm trọng thêm vết thương của con chiên. Và làm tất cả để có thể đem nó quay về đoàn.
Thế làm sao diễn giải câu: «Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.»? (v17) Dưới ánh sáng những gì chúng ta nghe trước đây và cách Chúa Giê-su đối xử dành cho những người thu thuế và người tội lỗi. Ở đây không phải là sự ruồng bỏ vĩnh viễn, mà là tôn trọng sự tự do của mỗi người…Trong lúc chờ những người như Gia-khêu (hay người thu thuế, trường hợp Thánh Mát-thêu) hoán cải. Bài học rút ra từ cách diễn biến tiệm tiến các huấn thị của Chúa Ki-tô, sự tôn trọng được xem tối cần thiết đối với bất cứ một ai, và đặc biệt đối với người tội lỗi. Tất cả những phương pháp tiến hành các huấn thị để nối lại quan hệ với người anh em - dù là tiếp xúc cá nhân, kêu gọi thêm chứng nhân, hoặc xin cộng đồng trợ giúp - đều phải có dấu ấn tính tế nhị và kín đáo. Ở đây chúng ta nhận ra rất rõ cách Chúa Giê-su nhấn mạnh trong Bài Giảng Trên Núi: «Anh em đừng xét đoán…(7,1) Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới?» (7, 3)
Đấy là những quy tắc vàng của đời sống trong Giáo Hội. Tôn trọng quy tắc ấy là gieo mầm cho đời sống vĩnh hằng: « (Amen) Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy. Hiệp lời cầu nguyện » (c18)
***
Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions
Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính: Nguyễn Thế Hoằng.