"Cả hai nên một thân thể".
« 1 Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất …
18 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó.
19 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế
.20 Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng.
21 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào.
22 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.
23 Con người nói:
"Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!
Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra."
24 Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.
« 1 Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất », câu đầu tiên của Sách Sáng Thế này có thể làm cho chúng ta hiểu lầm, và cũng có thể đây là một điều khó hiểu, một cạm bẫy không nên vấp ngã. Thật vậy, cái cạm bẫy làm cho chúng ta tin như đây là phóng sự của một cuốn phim chiếu lại một câu chuyện. Nếu chúng ta đọc theo não trạng duy chính thống, hiểu theo nghĩa đen, thì câu truyện gồm có ba màn : Màn 1, Chúa tạo dựng trời đất và con người ; Màn 2 Ngài thấy con người lẻ loi một mình Ngài quyết định tạo ra những gì có thể giúp con người; Ngài tạo ra các súc vật nhưng điều này không giải quyết vấn đề ; Màn 3, Chúa gây mê con người rút ra từ thân con người một xương sườn, để từ đấy tạo ra người đàn bà. Theo mô hình ấy, điều lô-gíc là A-đam chỉ có 23 xương sườn !
Dĩ nhiên đọc cách như thế ấy không thể không làm cho chúng ta suy nghĩ. Trước tiên chúng ta không thể khờ dại gì để tin thời ấy có một phóng viên đã chứng kiến cuộc tạo dựng của Thiên Chúa, trong những ngày đầu tiên của thế giới. Hơn nữa có điều gì không đúng đắn cho lắm, nghĩ rằng Chúa phải làm đi làm lại nhiều lần mới thành công tạo dựng. Sau cùng chúng ta biết rằng muốn đọc một tác phẩm cho có hiệu quả phải biết phân định loại thể của văn phẩm ấy. Một quyển tiểu thuyết không phải là một chuyện thật, còn một cuốn phim phóng sự là ghi lại một chuyện có thật, và khi chúng ta đọc một chuyện dụ ngôn của văn hào Pháp La Fontaine chúng ta không bao giờ hiểu theo nghĩa đen. Ví dụ như chuyện con sư tử và con chuột. Ít khi thấy con sư tử mắc bẫy trong cái lưới ! Càng ít thấy con chuột cắn lưới giải thoát con sư tử ! Nhưng ý nghĩa luân lý của bài là một sự thật vĩ đại : « Lúc nào ta cũng có thể cần một kẻ bé nhỏ hơn ta ».
Khi hội đồng Toà Thánh khuyên chúng ta không nên đọc Thánh Kinh một cách duy chính thống, theo nghĩa đen, ở đây chính là điều ấy. Chúng ta đang ở trong những chương đầu của sách Sáng Thế, còn gọi là bài viết về sự « khôn ngoan », tức là không phải những câu chuyện mà những suy tưởng. Hồi thế kỷ thứ II trước Chúa Giê-su - có lẽ thời vua Sa-lô-mon - có một nhà thần học phải trả lời rất nhiều câu hỏi vây lấy ông : Tại sao có sự chết ? có đau khổ ? có những khó khăn trong đời sống vợ chồng ? Và tất cả những « tại sao » mà chúng ta thường đặt trong cuộc sống… Để trả lời những câu hỏi ấy, ông kể một câu chuyện giống như Chúa Giê-su thường kể những dụ ngôn. Tác giả không phải một nhà khoa học mà là một tín hữu : ông không có tham vọng giải thích cho chúng ta, lúc nào và làm sao. Ông chỉ nói ý nghĩa của sự tạo dựng, dự án của Thiên Chúa. Một cách đặc biệt câu truyện - hay đúng hơn bài dụ ngôn - hôm nay của chúng ta cố gắng đặt quan hệ vợ chồng trong kế hoạch của Chúa. Cũng như mọi câu truyện mọi dụ ngôn của Chúa Giê-su, vị thần học ấy cũng đã dùng những hình ảnh : vườn địa đàng, giấc ngủ, cái xương sườn. Dưới hình ảnh ấy ta đoán ra một sứ điệp.
Sứ điệp ấy gồm bốn điểm :
Thứ nhất, người đàn bà có từ thời đầu tiên cuộc tạo dựng. Điều này đối với chúng ta là hiển nhiên, nhưng thời ấy quả quyết như thế là rất độc đáo. Ví dụ như ở xứ Mê-dô-pô-ta-mi-a - quê hương ông Áp-ra-ham - người ta cũng suy nghĩ về tạo dựng và cũng tìm kiếm những giải thích qua những câu truyện, không kém hùng vĩ và thơ mộng. Họ cho rằng tiên khởi người đàn bà chưa được tạo dựng và người đàn ông không cần đàn bà. Thánh Kinh, trái lại, quả quyết rằng đàn bà được tạo dựng ngay từ ban đầu của thế giới, và điều quan trọng đó là một món quà của Thiên Chúa, không có thì người đàn ông không thể hạnh phúc và nhân loại sẽ bất toàn.
Điểm thứ hai của sứ điệp là hạnh phúc nằm trong dự án của Thiên Chúa. Cũng ở Mê-dô-pô-ta-mi-a có nhiều thần, tất cả để là địch thù với nhau, và khi họ quyết định tạo dựng nhân loại là vì họ cần nô lệ để phục vụ họ. Trong lúc ấy, trong Thánh Kinh chỉ có một Thiên Chúa, và khi Ngài quyết định tạo dựng con người, Ngài đặt ngay vào Thiên Đàng, một thửa vườn tuyệt vời dành cho con người. Và câu : « Con người ở một mình thì không tốt » có nghĩa là Thiên Chúa tìm hạnh phúc cho con người.
Điểm thứ ba : đây là một khẳng định hết sức quan trọng và canh tân của Thánh Kinh. Giới tính là một điều tốt đẹp và được đánh giá cao, vì thuộc về đề án của Thiên Chúa. Đó là một dữ kiện quan trọng cho hạnh phúc người đàn ông và người đàn bà. « , người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt »
Điểm thứ tư : lý tưởng đề nghị cho đời sống lứa đôi không phải sự thống chế của người này trên người kia, nhưng sự bình đẳng trong đối thoại với nhau và khi nói « đối thoại » có nghĩa vừa xa cách vừa thân tình. Ở đây tiếng Pháp tỏ ra có một yếu điểm : cách chơi chữ trong ngôn ngữ Do Thái thú vị nhưng rất tiếc cách chuyển ngữ không thể hiện được. Tiếng Do Thái gọi đàn ông đọc là « Ish » và đàn bà là « Ishash », hai chữa rất gần với nhau, cùng một nguồn gốc, nhưng không giống nhau. Khi con người đặt cho thú vật cái tên, thì không bao giờ tên súc vật gần giống tên con người, cũng không cùng gốc chữ với con người, vì con người cảm thấy có sự xa cách với thú vật và Thiên Chúa cho quyền chế ngự trên loài vật. Nhưng đứng trước người đàn bà, con người thốt lên một tiếng đầy cảm xúc, đầy ý nghĩa biết ơn. Con người nhìn nhận « Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! » Hơn nữa khi Chúa nói dự án của Ngài, Thánh Kinh nói « Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó »có thể dịch ra là « một người đối diện với nó »
Thế nhưng người đàn ông nhìn nhận người đàn bà là người gần gũi nhất, nó không có can dự gì cả : nó nhận món quà nhưng không ấy từ Thiên Chúa. Điều tế nhị tuyệt vời của bài này là ở đây : « 21 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi ». Trong lúc Chúa hành động thì con người ngủ, chúng ta nhận thấy trong Thánh Kinh hình ảnh giấc ngủ trong những thời điểm rất quan trọng của loài người. Ví dụ như với Áp-ra-ham, khi Thiên Chúa thực hiện Giao Ước, Thánh Kinh dùng cùng một chữ được dịch là « một giấc ngủ lạ kỳ », trong Thánh Kinh chữ Hy-lạp dùng cụm từ « xuất thần ». Đây là một cách khiêm nhường để nói lên hành động của Thiên Chúa quá vĩ đại, long trọng, vượt khỏi con người, vì thế không thể chứng kiến được.
Sau cùng, hình ảnh của giấc ngủ, dĩ nhiên cũng gợi lên đêm tối, khi con người tỉnh giấc, một buổi bình minh mới bắt đầu cho nhân loại, vì người đàn bà được sinh ra.
***