BÍ TÍCH THÁNH THỂ - Lịch sử thần học (P1)

 


CHƯƠNG VI: LỊCH SỬ THẦN HỌC

Trong suốt 5 thế kỷ đầu của Giáo Hội, cử hành Phép Rửa và Thánh Thể là một cử hành duy nhất, không ngắt quãng. Thánh Thể là “chóp đỉnh” hoàn tất hành trình khai tâm Kitô giáo. Bí tích Thánh Thể là mầu nhiệm rất thánh chỉ dành cho những người đã chịu Phép Rửa (Sancta sanctis). Người dự tòng và hối nhân không được phép dự Tiệc Thánh. Họ phải ra về khi Phó tế tuyên bố “Ai không được phép tham dự Tiệc Thánh, hãy ra về !”.

Như vậy, trong suốt 5 thế kỷ đầu, không một người tín hữu nào nghi ngờ về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Trong thời kỳ dự tòng, các ứng viên Phép Rửa được giảng dậy về “giáo lý Phép Rửa” hay “giáo lý dự tòng”. Trong tuần bát nhật phục sinh, các tân tòng được giảng dậy về “giáo lý nhiệm huấn”, tức là những bài giáo lý liên hệ trực tiếp đến các mầu nhiệm mà họ vừa mới lãnh nhận trong đêm Phục sinh.

Do đó, mục đích của các giáo phụ là giúp các tin hữu gặp gỡ chính Chúa Kitô mỗi khi họ lãnh nhận Thánh Thể, bằng cách nhấn mạnh nhiều đến hiệu quả của Bí tích Thánh Thể hơn là hệ thống hoá như thời Kinh viện.

I.    TƯ TƯỞNG CÁC GIÁO PHỤ

Trong thời kỳ giáo phụ, mầu nhiệm Thánh Thể được suy tư xoay quanh những điểm chính sau đây :

-    Sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô trong Thánh Thể ;

-    Đặc tính Hy tế của Thánh Lễ ;

-    và Hiệu quả của việc hiệp lễ

A.    CÁC GIÁO PHỤ THỜI KỲ ĐẦU TIÊN

Chúng ta chỉ nói đến một số giáo phụ tiêu biểu

1.    Thánh Inhaxiô thành Antiôkia (+110)

Thánh Inhaxiô, giám mục thứ hai của Antiokia sau Phêrô, đã bị bắt dưới thời hoàng đế Trajan, bị giải sang Rôma và tử đạo năm 110, với hình phạt thả cho thú dữ cắn xé. Trên đường bị áp giải, từ Syria về Rôma để chịu hành hình, ngài đã viết thư cho các Giáo Hội tỏ tình huynh đệ với ngài khi ngài ghé qua, cho một số giám mục, chẳng hạn như Polycarpô thành Smyrna và cho Giáo Hội Rôma nơi ngài đang đi đến và yêu cầu họ đừng vận động để xin ân xá phóng thích ngài. Trong số 7 lá thư, có 5 đoạn nói về Bí tích Thánh Thể.

Các thư của Inhaxiô không phải là những khảo luận thần học, nhưng là chứng từ của một người đang đi đến cái chết và chỉ còn quan tâm đến những gì chính yếu. Qua các thư này, chúng ta thấy được tâm trạng của một vị tử đạo, những xác tín của một tín hữu và một số bận tâm lớn của mục tử. Đó là những bản văn đơn sơ, thường viết theo lối ám chỉ sống động và rất cô đọng.

Điều ngài viết về Bí tích Thánh Thể chứng tỏ rằng quan niệm của ngài lấy lại các yếu tố trong quan niệm Tân Ước về mầu nhiệm Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là sự hiện diện của Đức Kitô với chiều kích bao hàm cả cứu độ học lẫn giáo hội học. Bí tích Thánh Thể là Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, bữa ăn hiệp nhất và yêu thương, phương dược đem lại tính bất tử và sự sống trong Đức Giêsu Kitô

- Ephêsô 13,1 :

“Anh em hãy năng hội họp để dâng Thánh Thể và nhiều lời chúc tụng lên Thiên Chúa. Bởi vì càng hội họp nhiều, anh em càng tiêu diệt được sức lực và công trình huỷ hoại của Satan bằng chính sự hiệp thông đức tin của anh em”

Mối quan tâm chính của Inhaxiô là duy trì sự hiệp nhất đoàn kết trong Giáo hội. Sự hiệp nhất này họa theo sự hiệp nhất của Thiên Chúa, được xây dựng trên Bí tích Thánh Thể, được bảo vệ nhờ sự đồng tâm với giám mục. Việc năng hội họp dâng Thánh Thể sẽ củng cố sự hiệp nhất trong đức tin, chiến thắng những chia rẽ gây ra bởi Satan.

- Ephêsô 20,1 :

“Nếu nhờ lời cầu nguyện của anh em, Đức Giêsu Kitô coi tôi là xứng đáng và nếu đó là thánh ý Thiên Chúa, trong tiểu luận thứ hai mà tôi định soạn thảo, tôi sẽ giải thích cho anh em hiểu rõ kế hoạch của Thiên Chúa – phần này tôi đã bắt đầu rồi – về con người mới là Đức Giêsu Kitô. Kế hoạch này cốt ở đức tin đặt nơi Người, ở tình yêu dành cho Người trong cuộc khổ nạn và trong sự phục sinh của Người… đặc biệt nếu Chúa mạc khải cho tôi rằng mỗi người trong anh em nói riêng và mọi người nói chung, trong ân sủng xuất phát từ Danh Người, quy tụ lại trong cùng một đức tin và trong Đức Giêsu Kitô, Đấng thuộc dòng giống Đavít theo xác phàm (Rm 1,3) là con loài người và là Con Thiên Chúa, để hết lòng vâng phục giám mục và linh mục đoàn, và để được bẻ cùng một tấm bánh vốn là phương dược đem lại phúc trường sinh bất tử, là liều thuốc giải độc, để thoát cái chết mà sống mãi trong Đức Giêsu Kitô”

Trong đoạn này, Inhaxiô nói đến hiệu quả của việc tham dự Thánh Thể : bánh Thánh Thể là thuốc trường sinh, là liều thuốc giải độc giải thoát con người khỏi tội lỗi để được sống trong Đức Giêsu Kitô.

- Philadelphia 4,1-2 :

“Anh em hãy cẩn thận ! Chỉ tham dự một Thánh Lễ tạ ơn duy nhất mà thôi, bởi vì chỉ có một Thân mình của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, chỉ có một chén duy nhất để hiệp nhất chúng ta trong Máu thánh Người, chỉ có một bàn thờ cũng như chỉ có một giám mục cùng với linh mục đoàn và các phó tế là những bạn phục vụ của tôi ; như thế, những gì anh em thực hiện, anh em thực hiện theo như ý Chúa”

Theo Inhaxiô, cộng đoàn Thánh Thể là dấu chỉ sự hiệp nhất cho Giáo hội địa phương, bởi vì Mình và Máu Đức Kitô chỉ là một, cũng như chỉ có một bàn thờ và một giám mục. Ngài nói rằng cử hành Thánh Thể quanh giám mục là để thực hiện và bày tỏ tính hiệp nhất của Giáo Hội.

- Smyrna 7, 1

“Họ (những người theo Ảo thân thuyết = Docétisme) đứng xa, không tham dự Thánh Lễ tạ ơn và các buổi cầu nguyện, bởi vì họ không tuyên xưng Thánh Thể là thân mình của Cứu Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, thân mình đã chịu đau khổ vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa nhân từ cho phục sinh. Vậy là những kẻ chối từ hồng ân Thiên Chúa cứ chết vì tranh cãi. Phải chi họ thực thi đức ái để được phục sinh có hơn không !”.

Trong đoạn này, thánh Inhaxiô nói lên niềm tin của Giáo Hội để chống lại những người chối thân xác thực sự của Chúa, họ là những người theo Ảo thân thuyết : Thánh Thể là Thân Mình đích thực của Chúa, Thân Mình đã bị nộp vì chúng ta và đã được Thiên Chúa Cha phục sinh.

- Smyrna 8, 1 :

“Không có gì thuộc về Hội Thánh mà lại được thực hiện ngoài ý của giám mục. Thánh Thể chỉ có hiệu lực, khi được cử hành dưới sự chủ tọa của giám mục hay vị đại diện của ngài. Nơi nào có giám mục, nơi đó có Hội Thánh, cũng như nơi nào có Đức Giêsu, nơi đó có Hội Thánh công giáo. Không được phép cử hành Thánh Tẩy cũng như Agapê ngoài ý muốn của giám mục ; tất cả những gì ngài chấp thuận đều đẹp lòng Thiên Chúa”

Trong đoạn này, Inhaxiô nói đến sự hiệp nhất hữu hình của Hội Thánh địa phương quanh giám mục. Cử hành các bí tích khai tâm Kitô giáo chỉ có hiệu lực khi được cử hành trong sự hiệp thông với giám mục.

2.    Thánh Justino và lễ tạ ơn

Justinô là người Palestine, quê ở Flavia Neapolis. Được hấp thụ nền văn hoá Hy lạp, nhưng nguồn gốc Palestine của ngài có lẽ phần nào đã đóng góp vào kiến thức về các truyền thống chú giải Do Thái - Kitô giáo của ngài.

Vào khoảng năm 132-135, ngài trở thành Kitô hữu. Việc trở lại Kitô giáo là thành quả của cả một hành trình tri thức và thiêng liêng được mô tả ở đầu cuốn Đối thoại với Tryphon.

Sau năm 150, ngài viết cuốn Hộ giáo thứ nhất (1 Apologie) gửi hoàng đế Antonin nhằm bảo vệ Kitô giáo và các Kitô hữu. Tiếp đến là cuốn đối thoại với Tryphon (dialogue avec Tryphon), một người Do Thái mà chắc hẳn ngài đã gặp ở Ephêsô (k. 130) vào lúc có cuộc nổi dậy thứ hai của người Do Thái. Trên thực tế, cuốn này được viết vào cuối đời của ngài (k. 155-160). Cuộc tranh luận giữa Kitô hữu và người Do Thái là một cuộc tranh luận sẽ còn kéo dài rất lâu nơi các giáo phụ. Sau đó, khoảng trước năm 165, ngài xuất bản cuốn Hộ giáo thứ II, bổ xung cuốn thứ I, đệ lên hoàng đế Marc-Aurèle, vào dịp ba Kitô hữu bị hành quyết tại Rôma.

Thánh Justinô cuối cùng đã định cư tại Rôma, Trong môi trường sôi động của các bậc thầy về triết học và của các nhà thuyết giảng sự khôn ngoan, ngài phải đương đầu với sự thù nghịch của một triết gia ngoại đạo, tên là Crescens (x. Hộ giáo II). Sự thù nghịch này, có lẽ đã đưa ngài đến cái chết tử đạo, khoảng năm 165 cùng với sáu môn sinh.

a.     Diễn tiến cử hành Thánh Thể ngày Chúa nhật

Didachè, chương 14,1, để lại cho chúng ta chứng từ về ngày của Chúa là để “bẻ bánh” và “tạ ơn” :

“Ngày của Chúa, anh em hãy tụ họp lại để bẻ bánh và để tạ ơn “

Nhưng chỉ với thánh Justinô trong tác phẩm 1 Hộ giáo (1Apologie) chương 67,3-7, viết vào khoảng năm 155 tại Rôma mà ngài gửi cho hoàng đế Antoniô le Pieux (138-161), lần đầu tiên, chúng ta mới có được chứng từ về diễn tiến của việc tập họp ngày Chúa Nhật của các Kitô hữu :

3.“Trong ngày mà người ta gọi là ngày của Mặt Trời, những người thuộc nhóm chúng tôi, dù ở thành thị hay thôn quê, đều hội họp lại ở một nơi. Người ta đọc lại hồi ký của các tông đồ và sách các ngôn sứ, tùy theo thời giờ cho phép.

4. Đọc sách xong, vị chủ sự lên tiếng nhắn nhủ và khuyến khích những người hiện diện sống theo các giáo huấn và gương lành tốt đẹp này.

5. Sau đó chúng tôi đứng lên, dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa cho chính chúng tôi và cho mọi người khắp trên thế giới, để xứng đáng trở thành những người công chính và trung thành tuân giữ lề luật ngay trong cuộc sống hầu đạt được ơn cứu độ vĩnh cửu.

Sau lời nguyện, chúng tôi hôn và chúc bình an cho nhau. Rồi như chúng tôi đã nói, khi đã cầu nguyện xong, một tín hữu mang bánh và một chén rượu có pha nước cho vị chủ sự.

Vị chủ sự cầm lấy bánh ruợu, nhân danh Chúa Con và Thánh Thần, dâng lời chúc tụng và tôn vinh Chúa Cha là Chúa tể càn khôn.

Ông đọc một lời tạ ơn dài về việc Thiên Chúa cho chúng ta xứng đáng lãnh nhận các hồng ân. Khi vị chủ sự kết thúc lời nguyện và kinh tạ ơn, mọi người hiện diện đều đồng thanh đáp : Amen

Sau khi vị chủ sự hoàn tất nghi thức tạ ơn và toàn dân thưa Amen, các vị mà chúng tôi gọi là phó tế phân phát bánh và ruợu có pha nước đã “trở thành Thánh Thể” (La distribution des choses eucharistiés) cho mọi người hiện diện hưởng dùng và đem về cho những người vắng mặt.

6. Những người dư giả sẽ ban phát cho kẻ khác tùy nhu cầu. Tất cả những gì được thu nhận đều được đem đến cho vị chủ tọa ; ngài sẽ cứu giúp các trẻ mồ côi, các bà goá bụa và những ai cần thiết như đang bệnh hoạn hay vì nhiều lý do khác ; tắt một lời, ngài giúp đỡ cho những ai cần thiết.

7. Chúng tôi họp nhau vào mỗi ngày Mặt trời, bởi vì đó là ngày thứ nhất, Thiên Chúa rút chất liệu từ bóng tối sáng tạo vũ trụ và cũng là ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng tôi, đã sống lại từ cõi chết”. (1Hộ giáo 67, 3-7)

Thánh Justinô đã mô tả lại diễn tiến việc cử hành Thánh Thể vào ngày Chúa nhật và nói lên lý do cử hành trong ngày này, vì ngày Chúa nhật là ngày của sáng tạo và ngày Chúa sống lại. Ngài cũng nhắc đến việc đọc “hồi ký của các tông đồ(Mémoires des apôtres) có nghĩa là các “Phúc âm” (x. 1Hộ giáo 66,3) và sách các ngôn sứ (Ecrits des prophètes) có nghĩa là Cựu ước. Qua việc đọc Cựu ước, Giáo Hội thuở ban đầu muốn loan báo “ngày hôm nay” của việc hoàn tất lời hứa nhờ Đức Kitô, trong Mầu nhiệm Vượt qua của Ngài.

Buổi hội họp mà Justinô vừa mô tả vẫn là cấu trúc cơ bản của việc cử hành Thánh Lễ cho tới ngày nay. Thánh Lễ chia làm hai phần, nhưng là một toàn thể thống nhất :

-    Tập họp, phụng vụ Lời Chúa với các bài đọc, bài giảng và lời nguyện chung

-    Phụng vụ Thánh Thể với việc hiến dâng bánh rượu, truyền phép với lời kinh tạ ơn và hiệp lễ.

Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể là “một hành vi phượng tự duy nhất” (PV 56). Bàn tiệc Thánh Thể vừa là bàn tiệc Lời Chúa vừa là bàn tiệc Mình Chúa Kitô (x. MK 21).

b.     Sự hiện diện đích thực của Chúa trong Thánh Thể và hiệu quả của việc hiệp lễ.

Thánh Justinô trong chương 66,1-3 của tác phẩm “1Hộ giáo” đã nói lên niềm tin của Giáo Hội vào sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Thánh Thể, những điều kiện để lãnh nhận và hiệu quả của việc hiệp lễ :

 1) “Chúng tôi gọi lương thực này là Thánh Thể (eucharistie), không ai được chia phần vào Bánh này, trừ những kẻ tin điều chúng tôi dạy là chân lý và đã lãnh nhận thánh tẩy để được tha tội, được tái sinh vào đời sống mới và sống theo giáo huấn của Chúa Kitô.

2) Chúng tôi không lãnh nhận bánh này như lương thực thường dùng, cũng như không nhận rượu này như thức uống bình thường, nhưng đã trở thành Thịt Máu nhờ Ngôi Lời của Thiên Chúa, Chúa chúng tôi ; Đức Giêsu Kitô ban Thịt và Máu để cứu độ chúng ta, thì lương thực này được tạ ơn (eucharistié) nhờ một bài cầu nguyện xuất phát từ Người – Lương thực này nuôi dưỡng chúng ta bằng cách đồng hóa máu và thịt chúng ta với Máu và Thịt của Chúa Giêsu nhập thể ; đó là giáo lý của chúng tôi.

3) Các tông đồ, như trong ký ức của họ đã ghi chép lại mà chúng tôi gọi là Phúc âm, đã kể lại cho chúng tôi những gì mà Chúa Giêsu đã nhắn nhủ các ngài ; Người cầm lấy bánh và sau khi đã tạ ơn ; Người nói với các ông : “anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy. Này là Mình Thầy”. Cùng một thể thức như vậy, Người cầm lấy chén rượu, và sau khi đã tạ ơn, Người nói : “Này là Máu Thầy” và Người chỉ ban cho họ mà thôi” (1 Hộ giáo 66,1-3).

Trong lời giải thích này, thánh Justinô nhấn mạnh đến đức tin của Giáo Hội : Giáo Hội cử hành “tạ ơn” trong đức tin. Đức tin và việc gia nhập vào Giáo Hội là những điều kiện để lãnh nhận lương thực này. Lương thực này là Thịt và Máu Đức Kitô. Khi nhận lãnh, người tín hữu được kết hiệp mật thiết vào Thân Mình Đức Kitô. Giáo Hội không coi Thánh Thể như của ăn thức uống thông thường, nhưng như lương thực thiêng liêng và đích thực nuôi dưỡng Giáo Hội.

Giáo Hội, ngay từ những thế kỷ đầu tiên đã nhìn Thánh Thể như bánh nuôi dưỡng đức tin, niềm hy vọng và lòng mến cho Dân Chúa lữ hành. Nhiều chứng từ cho chúng ta thấy, ngay từ thế kỷ thứ II, trong nhiều Giáo Hội, đã xuất hiện thói quen đem về nhà một phần bánh được hiến thánh để được hiệp thông mỗi ngày, hay dành cho những người đau yếu không thể đến trong các buổi tụ họp ngày chúa nhật hay là dành cho những tín hữu chuẩn bị chấm dứt hành trình trần gian như “của ăn đường” (x. 1Hộ giáo 67,5).

Trong tác phẩm “Đối thoại với Tryphon”, ta gặp nhiều đoạn nói về Thánh Thể, nhưng đặc biệt là các đoạn 41,1-3 ; 117,1-4. Tác phẩm này là một tác phẩm hộ giáo nhằm chống lại sự tấn công của Do Thái giáo.

c.      Thánh lễ là Lễ tạ ơn và tưởng niệm cuộc Khổ nạn của Chúa

1) Luật buộc những ai khỏi bệnh phong cùi phải dâng một của lễ bằng bột mì ; đó là hình ảnh Thánh Thể. Chúa Giêsu đã truyền cho chúng tôi cử hành Lễ Tạ ơn, tưởng nhớ cuộc khổ nạn Người đã chịu, để loài người được thanh tẩy khỏi tội lỗi ; cử hành để chúng tôi tạ ơn Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ vạn vật vì loài người, cũng như đã giải thoát chúng tôi khỏi mọi tội lỗi mà chúng tôi đã được sinh ra trong đó ; cử hành để tạ ơn về việc Người đã phá hủy tuyệt đối các quyền thần và dũng thần nhờ Đấng đã vâng phục

2) Thiên Chúa đã nói về các lễ vật mà anh em dâng lên qua ngôn sứ Malachie như sau : “Các ngươi đã không sống theo ý muốn của Ta và Ta không chấp nhận lễ vật từ tay các ngươi. Chính vì thế, từ khi mặt trời mọc đến khi lặn, muôn dân sẽ ca tụng Danh Ta ; khắp mọi nơi sẽ dâng tiến lễ vật để ca tụng Danh Ta, lễ vật tinh tuyền, vì Danh Ta thật vĩ đại giữa muôn dân, còn các ngươi, các ngươi đã bôi nhọ Danh Ta”

3) Lễ vật mà chúng tôi dâng tiến khắp nơi trong các dân tộc, đó là Bánh Thánh Thể cũng như Chén Thánh Thể. Chính vì thế, Thiên Chúa phán : chúng tôi ca tụng Danh Người, còn các anh bôi nhọ Danh Người” (Đối thoại với Tryphon, 41,1-3).

Trong đoạn này, thánh Justinô nói đến việc cử hành Thánh Thể. Cử hành Thánh Thể là để tưởng nhớ cuộc khổ nạn của Chúa Kitô và để tạ ơn Thiên Chúa. Lý do để tạ ơn vừa liên hệ đến công cuộc sáng tạo vừa liên hệ đến công cuộc cứu độ nhờ Đức Giêsu. Thánh Thể là lễ vật tinh tuyền được dâng lên Thiên Chúa và chỉ lễ vật này mới làm đẹp lòng Thiên Chúa, bởi vì Lễ vật này chính là Đức Giêsu Kitô.

d.     Hy tế Thánh lễ

1) Thiên Chúa sẽ chấp nhận mọi lễ vật mà Đức Giêsu Kitô truyền dạy phải dâng tiến nhân Danh Người, tức là Bánh Rượu Thánh Thể (L’eucharistie du pain et de la coupe) mà các tín hữu khắp nơi trên địa cầu dâng lên

2) Chúng tôi cũng tuyên bố : chỉ có những kinh nguyện và của lễ tạ ơn (les eucharistiés) do tay những kẻ xứng đáng dâng lên, mới là những của lễ thiện hảo và đẹp lòng Thiên Chúa mà thôi

3) Người Kitô hữu được truyền dạy chỉ dâng những của lễ này mà thôi là bánh và rượu để tưởng niệm Con Thiên Chúa đã chịu khổ nạn vì họ

4) Không còn một chủng tộc nào mà nơi đó không có những kinh nguyện và của lễ tạ ơn, nhân danh Đức Giêsu Kitô chịu khổ nạn, dâng lên Thiên Chúa Cha, Đấng sáng tạo vũ trụ” (Đối thoại với Tryphon, 117,1-4).

3.    Thánh Irênêô thành Lyon

Thánh Irênêô sinh khoảng 130-135, sống thời niên thiếu tại Smyrna, thuộc Tiểu Á, (nay thuộc Thổ nhĩ Kỳ), bên cạnh thánh giám mục Polycarpô và các “presbyteri” khác (trưởng lão). Từ Tiểu Á, ngài di cư sang Tây phương, không rõ vì lý do gì và từ lúc nào. Vào năm 177, ngài được giám mục Pothin truyền chức linh mục tại Lyon (Pháp). Sau khi Pothin chịu tử đạo, ngài kế nhiệm và đảm nhận trách nhiệm mục tử Lyon cho tới khoảng năm 200.

Môi trường Irênêô xuất thân chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của thánh Phaolô và thánh Gioan. Irênêô là nhà thần học đầu tiên sử dụng các thư Phaolô một cách có hệ thống, coi đó như nguồn suối thần học, và đã góp phần phổ biến các tác phẩm của Gioan ở Tây phương. Ngài coi việc mình gắn bó với các tông đồ, qua các “trưởng lão”, nhất là Polycarpô, một môn đệ của Gioan là điều hết sức quan trọng. Irênêô sẽ là một nhà thần học đầu tiên về “Truyền thống” của Giáo hội.

Thánh Irênêô tiên vàn là một mục tử, chính những bận tâm mục vụ đã khiến ngài viết các tác phẩm mà chúng ta còn lưu giữ. Tác phẩm quan trọng nhất, xét về mọi phương diện, thường được gọi là cuốn Adversus haereses (Chống các lạc giáo). Tác phẩm này nhằm chống lại sự truyền bá của Ngộ đạo thuyết, và ta có thể coi như một “tổng luận” chống Ngộ đạo thuyết. Tác phẩm này ảnh hưởng trên các thần học gia về sau như Tertulianô, Hippôlitô thành Rôma, Athanasiô.

a.     Sự hiện diện đích thực của Chúa

“Các người Do Thái cũng như mọi cộng đồng lạc giáo không còn được phép dâng một lễ vật nào nữa : tay họ đã vấy máu ; họ đã không đón nhận Ngôi Lời của Thiên Chúa, qua Người mà chúng ta dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Làm thế nào mà họ tin nhận được tấm bánh, trên đó chúng ta đọc lời kinh Tạ ơn, là Thân Mình của Chúa họ, và chén là Máu, nếu như họ không công nhận Người là Con Thiên Chúa, tức là Ngôi Lời của Thiên Chúa, nhờ Người mà cây đem lại hoa trái, các nguồn suối tuôn chảy, trái đất cho mạ xanh tươi, rồi nhánh lúa trĩu hạt” (Chống các lạc giáo IV, 18,4).

Thánh Irênêô đã nại tới Thánh Thể để xác quyết thực tại của mầu nhiệm nhập thể, để chống lại với nhóm Ngộ đạo thuyết, những người chối mầu nhiệm nhập thể. Đoạn văn này cho thấy các lạc giáo vì không tin vào Chúa Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được dựng nên, nên họ không thể tin rằng bánh và rượu sau lời truyền phép là Thân Mình và Máu Đức Kitô. Đoạn văn này là một chứng từ về niềm xác tin của Giáo Hội đương thời vào sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Thánh Thể và Thánh Lễ là một hy tế.

b.     Hiệu quả của việc hiệp lễ

“Khi tấm bánh phát xuất từ đất nhận lấy lời khẩn cầu (Epiclèse) lên Thiên Chúa, sẽ không còn là bánh thông thường nữa, nhưng là Thánh Thể, nơi phối hợp hai yếu tố trời và đất. Như thế, khi thân xác chúng ta lãnh nhận Thánh Thể, sẽ thoát được sự hư hoại, chỉ vì chúng có niềm hy vọng vào cuộc phục sinh vinh hiển” (Chống các lạc giáo IV, 18,5).

Qua đoạn văn trên, thánh Irênêô cho rằng chính lời khẩn cầu Thánh Thần (Epiclèse) làm cho bánh và rượu trở nên Mình Máu thánh Chúa. Thánh nhân còn đề cập đến chiều kích cánh chung của bí tích Thánh Thể : hiệu quả của việc hiệp lễ là làm cho chúng ta được sống muôn đời.

4.       Tertulianô (160-240)

Tertulianô là vị tiên phong xuất sắc của các giáo phụ La tinh. Sống ở Carthage, ông là người trở lại đạo giống như nhiều Kitô hữu đương thời. Tertulianô rất thông thạo tiếng Hy lạp. Nhờ ông, thần học La tinh bước đầu đã không bị cắt đứt bởi các nguồn Hy lạp.

Tertulianô có một kiến thức vững vàng về triết học cũng như về pháp luật. Là một nhân vật tự do, không bảo thủ, có gia đình, hoạt động của ông trải dài cả 20 năm, khoảng từ 197-220. Các tác phẩm của ông – khoảng 30 tác phẩm có tầm cỡ khác nhau – phần lớn được soạn thảo do hoàn cảnh bút chiến.

Về các Bí tích khai tâm, Tertulianô có những cách nói rất sống động khi nhấn mạnh đến hiệu quả của các Bí tích khai tâm Kitô giáo đối với linh hồn con người. Vai trò thân xác được đề cao trong nhiệm cục cứu độ cũng như trong nhiệm cục bí tích :

“Thân xác được rửa để linh hồn được thanh tẩy ; thân xác được xức dầu để linh hồn được hiến thánh ; thân xác được ghi dấu để linh hồn được trang bị ; thân xác được đặt tay để linh hồn được Thánh Thần chiếu sáng ; thân xác được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Đức Kitô để linh hồn được no đầy” (Về sự phục sinh của thân xác 8 ).

Theo ông, bánh và rượu trở nên Mình và Máu Đức Kitô là nhờ những lời thiết lập bí tích Thánh Thể của Đức Kitô (Lời truyền phép) :

“Bánh mà Đức Kitô cầm và trao cho các môn đệ, Ngài biến thành Thân Mình của Ngài, khi nói “Này là Mình Thầy” (Chống Marcion 4,40),

Nhưng sau đó ông lại thêm câu : “id est figura corporis mei” (đây là hình ảnh của Thân mình Thầy). Cách nói này đã tạo ra nhiều tranh luận.

Thực ra, nếu như trong đoạn Chống Marcion 4,40, ông gọi Thánh Thể là “figura corporis” thì chúng ta đừng nghĩ rằng ông cho thực tại của Thánh Thể là biểu trưng, ngược lại ông muốn nhấn mạnh và đảm bảo thực tại này.

Khi nhấn mạnh như thế là ông có ý chống lại những luận chứng của nhóm Ngộ đạo (gnosticisme) cho rằng thân xác lịch sử của Đức Kitô là siêu thực và chỉ là ảo giác (Docétisme). Một “figura” không phải là một ảo ảnh (fantôme) nhưng có điều kiện tiên quyết là sự xuất hiện của corpus (thân xác) và corpus phải là một thực tại. Như thế, Thánh Thể hướng vào thân xác lịch sử của Đức Kitô. Ông xác tín về sự hiện diện thực sự của Đức Kitô đến nỗi ông khiển trách những người theo Marcion là mâu thuẫn, khi họ chối thân xác Đức Kitô chịu đóng đinh trên thập giá mà vẫn tiếp tục cử hành Thánh Thể. Theo ông, nếu những người của nhóm Ngộ đạo chối thân xác thực sự của Đức Kitô trên thập giá, thì làm sao có thể cho rằng thân xác ấy hiện diện trong Bí tích Thánh Thể ? Bánh với tư cách là dấu chỉ của thân xác giả thiết rằng Đức Kitô có một thân xác thực sự.

Một chỗ khác, cũng trong tác phẩm Chống Marcion (1,14), ông nói đến “bánh mà Đức Kitô làm nên thân mình Ngài” (panem quo ipsum corpus repraesantat) thì ta phải hiểu chữ repraesantare ở đây có nghĩa là “làm cho hiện diện” (rendre présent). Ta có thể trình bầy tư tưởng của ông cách chính xác như sau : Đức Kitô đã làm cho thân mình của Ngài hiện diện nhờ bánh.

B.    CÁC GIÁO PHỤ HY LẠP

1.    Thánh Cyrillo thành Giêrusalem (313 – 387)

Thánh Cyrillô sinh tại Palestine khoảng năm 313. Thụ phong linh mục năm 345. Sau đó, ngài được đề cử phụ trách các dự tòng. Ngài đã soạn các bài giáo lý dành cho họ. Năm 348 được bổ nhiệm làm giám mục Giêrusalem. Bị lưu đầy 3 lần (357, 360 và 367).

Tác phẩm nổi tiếng nhất của thánh Cyrillô là 23 bài huấn giáo, gồm 18 bài huấn giáo cho các dự tòng kéo dài suốt Mùa Chay được khai triển dựa trên Kinh Tin Kính và 5 bài giáo lý nhiệm huấn dành cho các tân tòng trong tuần lễ Phục sinh nhằm giải thích ý nghĩa của ba bí tích khai tâm mà họ vừa lãnh nhận trong đêm Phục sinh.

Thánh Cyrillô sử dụng Kinh Thánh và triết lý Platon để minh giải bí tích Thánh Thể như quá trình trong đó Thiên Chúa ban ơn hiệp thông và con người được thông phần thiên tính. Dưới hình dạng bánh và rượu, Đức Kitô cống hiến cho ta Mình và Máu Người. Người tín hữu lãnh nhận bí tích Thánh Thể được cùng với Người trở nên cùng một thân thể, một huyết thống và được thông phần bản tính của Thiên Chúa.

Thánh Cyrillô diễn tả sự hiện diện đích thực (présence réelle) của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể rất rõ ràng. Khi trích dẫn 1Cr 11,23-25, ngài viết :

“Giáo huấn của thánh Phaolô cũng đủ để đem lại cho anh em niềm xác tín hoàn hảo về các mầu nhiệm thánh thiêng mà anh em được xét là xứng đáng lãnh nhận ; một khi anh em đã trở thành một thân thể, một huyết thống với Đức Kitô. Quả vậy, thánh Phaolô vừa loan báo rằng : trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói : “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy, Người cũng nâng chén và nói : “Này là Máu Thầy” (1Cr 11,23-25). Khi chính Người đã lên tiếng và nói về bánh : “Này là Mình Thầy”, thì còn ai dám nghi ngờ nữa ? Vì khi chính Người đã quả quyết rằng : “Này là Máu Thầy”, thì ai dám phản đối và tuyên bố đó không phải là Máu của Ngài” (Giáo lý nhiệm huấn IV,1).

Ngỏ lời với các tân tòng, thánh Cyrillô nói đến hiệu quả của việc lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa là làm cho họ trở nên một với Đức Kitô, sống sự sống của Đức Kitô, tham dự vào bản tính Thiên Chúa, trở nên những người mang Chúa Kitô :

“Như vậy, chúng ta hãy đến thông phần Mình và Máu Đức Kitô với tất cả lòng xác tín. Thân Mình của Ngài được ban cho anh em dưới dạng bánh, Máu của Ngài được phân phát cho anh em dưới dạng rượu. Thông phần Mình và Máu của Chúa, anh em trở nên một thân mình duy nhất, một dòng máu duy nhất với Ngài. Quả thật, chúng ta trở nên những con người mang Chúa Kitô, vì Thịt và Máu của Ngài nằm trong các chi thể của ta. Như thế, theo lời thánh Phêrô, chúng ta đã trở thành những người “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (ibid, IV,3).

Cũng trong bài giáo lý nhiệm huấn thứ tư này, thánh Cyrillô đã chiêm ngắm sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể bằng đức tin, chứ không bằng suy luận :

“Bạn đừng nhìn trong bánh và rượu những yếu tố thuần tuý tự nhiên, bởi vì Chúa đã nói rõ đó là Mình và Máu Người ; đức tin bảo đảm cho bạn, mặc dù giác quan bạn trông thấy thể khác” (Ibid. IV,6)

“Bánh này không còn là bánh, dù bằng chứng của vị giác thế nào đi nữa, nhưng là Thân Mình Chúa Kitô. Rượu này không còn là rượu, dù giác quan có nói thế nào đi nữa, nhưng chính là Máu Chúa Kitô” (ibid. IV,9).

Qua cách mô tả của thánh Cyrillô về cách thức rước lễ, ta thấy được lòng tin của Giáo Hội trong 5 thế kỷ đầu về sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô mà bánh và rượu biểu thị vững chắc như thế nào, đồng thời biểu lộ tâm tình tôn thờ và yêu mến khi hiệp lễ :

“Sau đó anh em nghe ca xướng viên mời gọi anh em đến hiệp thông các mầu nhiệm thánh bằng một giai điệu thần linh. Ông nói : “Hãy nếm thử và hãy nhìn coi Chúa thiện hảo dường bao” (Tv34,9). Anh em đừng phán đoán dựa vào miệng lưỡi xác thịt, nhưng theo đức tin không thể nghi ngờ. Vì khi thưởng nếm, không phải anh em thưởng nếm bánh và rượu, nhưng là Mình và Máu Chúa Kitô mà chúng biểu thị. Vậy khi anh em lại gần, anh em đừng đưa những lòng bàn tay mở rộng tới trước, cũng đừng xoè những ngón tay ra, nhưng hãy dùng tay trái của anh em làm thành chiếc ngai cho bàn tay mặt, vì bàn tay này phải đón nhận Đức Vua, và trong vũm bàn tay anh em, anh em hãy đón nhận Thân Mình Chúa Kitô, trong khi nói : “Amen”. Khi đó, anh em hãy lo thánh hoá đôi mắt anh em bằng sự tiếp xúc với Thân Mình thánh thiện, rồi hãy chịu lấy Mình Chúa và hãy chăm chú đừng để mất đi chút gì. Vì điều anh em làm mất là như anh em bị mất đi một trong các chi thể của chính anh em. Thật vậy, anh em hãy nói cho cha nghe, nếu người ta cho anh em những miếng vụn bằng vàng, anh em lại chẳng giữ chúng cẩn thận tối đa để đừng mất đi chút gì và đừng phải chịu thiệt hại vì sự mất mát đó sao ? Vậy chẳng lẽ anh em lại không trông chừng thật cẩn thận hơn nữa một vật quý hơn vàng và hơn đá quý để đừng làm mất đi mảnh vụn nào sao ?

Tiếp đến, sau khi đã thông hiệp vào Thân Mình Chúa Kitô, anh em cũng hãy đến gần chén Máu của Ngài. Anh em đừng đưa tay ra, nhưng cúi xuống, và trong một cử chỉ tôn thờ và kính trọng, thưa ‘Amen’, anh em cũng hãy thánh hoá bản thân anh em khi lãnh nhận Máu Chúa Kitô. Và trong khi đôi môi anh em còn ẩm ướt, anh em hãy dùng đôi bàn tay lướt qua trên chúng và thánh hoá mắt anh em, trán anh em và những giác quan khác của anh em. Rồi, trong khi chờ đợi lời nguyện, anh em hãy tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã xét rằng anh em xứng đáng với những mầu nhiệm lớn lao dường ấy” (Giáo lý nhiệm huấn V, 20-22).

Theo thánh Cyrillô, sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Thánh Thể là kết quả của một sự biến đổi các yếu tố do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài là người đầu tiên giải thích sự biến đổi theo chiều hướng “biến thể” mà dấu lạ Cana là hình ảnh :

“Ngày xưa ở Cana xứ Galilê, Ngài đã biến đổi nước thành rượu chỉ bằng ý muốn. Và khi Ngài biến rượu thành Máu của Ngài, thì chúng ta dám cho là không đáng tin sao ? Khi Ngài được mời đến dự tiệc cưới trần tục, Ngài đã làm phép lạ kỳ diệu đó, thì khi Ngài ban cho khách dự tiệc cưới được hưởng Mình và Máu của Ngài, chúng ta lại chẳng tuyên xưng Ngài một cách tin tưởng hơn thế nữa sao ?” (ibid. IV,2).

Theo thánh Cyrillô, lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần xuống trên lễ vật (Kinh Epiclèse) làm cho bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô :

“Bánh và rượu của Bí tích Thánh Thể, trước lúc dâng lời khẩn nguyện (épiclèse) thánh thiện lên Ba Ngôi đáng tôn thờ, là bánh và rượu thông thường, nhưng sau lời khẩn nguyện, bánh trở nên Mình Chúa Kitô và rượu trở nên Máu Chúa Kitô” (ibid, V, 7).

Qua chứng từ của thánh Cyrillô, chúng ta biết được cơ cấu nền tảng đầu tiên của lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần : lời cầu khẩn được thưa lên với Chúa Cha để xin Người sai Chúa Thánh Thần xuống trên lễ vật mà biến đổi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô :

“Sau khi được thánh hoá bởi những ca khúc thiêng liêng, chúng tôi khẩn nài Thiên Chúa nhân từ cử Thánh Thần ngự xuống trên lễ vật trước mặt chúng tôi, để Người biến đổi bánh thành Mình Đức Kitô và rượu thành Máu Thánh Đức Kitô. Thực vậy, điều gì được Thánh Thần chạm đến thì sẽ được thánh hoá và biến đổi hoàn toàn” (Ibid. V, 7)

Về Hy tế Thánh Thể, thánh Cyrillô nói rằng Thánh Lễ là hy tế không đổ máu, hy tế thiêng liêng, hy tế đền tội, hy tế giao hoà, hy tế xoá tội được dâng lên để cầu cho mọi người :

“Khi lễ vật thiêng liêng và hy lễ không đổ máu đã được dâng tiến, chúng tôi cầu khẩn Thiên Chúa trên lễ vật đền tội này, để cầu bình an cho Hội Thánh, cho vũ trụ thái hoà, cho các hoàng đế, các chiến sĩ và các đồng minh, cho các kẻ tàn tật và đau khổ, tắt một lời, chúng tôi cầu nguyện và dâng lễ vật này để cầu cho những ai đang cần sự trợ giúp.

Tiếp đến, chúng tôi nhớ tới những kẻ đã qua đời, với niềm tin tưởng rằng trước mặt chúng tôi có lễ vật rất thánh và rất đáng kính sợ ; lời cầu nguyện của chúng tôi dâng lên sẽ giúp đắc lực cho các linh hồn này… Chúng tôi xưng tội lỗi mình ra với Đức Kitô tư tế và như vậy, chúng tôi dâng lễ đền tội lên Thiên Chúa hay thương xót, để cầu cho kẻ chết và cho chính chúng tôi” (Giáo lý XXIII, 20-23)

2.    Théodore thành Mopsueste (350 – 428)

Théodore sinh tại Antiokia khoảng năm 350 và là bạn đồng môn của thánh Gioan-Kim Khẩu. Năm 392, ông được đề cử làm giám mục thành Mopsueste (ngày nay thuộc Thổ nhĩ Kỳ). Là một nhà thần học chịu ảnh hưởng đặc biệt sâu đậm của trường phái Antiokia, ông đã có công diễn tả một cách thuyết phục tính chất gợi tưởng đa diện của phụng vụ Thánh Thể. Phụng vụ Thánh Thể gợi nhớ đến cuộc thương khó của Đức Giêsu trong quá khứ và hướng người tín hữu đến niềm hy vọng cánh chung trong tương lai, đồng thời giúp người tín hữu nhận ra sự hiện hiện của Mình và Máu thánh Đức Kitô.

Ông để lại cho chúng ta 16 bài giảng huấn giáo (homiliae catecheticae), gồm 10 bài giải thích kinh Tin Kính, 1 bài giải thích kinh Lạy Cha và 5 bài về ba bí tích khai tâm.

Các bài giảng huấn giáo của Théodore giúp chúng ta đi vào thần học bí tích của ông. Ông nói rõ ràng về sự hiện diện đích thực (présence réelle) của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể và đặc tính Hy tế của Thánh Lễ. Ông bác bỏ lối giải thích tượng trưng về Bí tích Thánh Thể. Ông nói :

“Thật là một điều quá hiển nhiên là Đức Kitô khi trao bánh không nói “Này là hình ảnh (biểu trưng, symbolon) của Mình Thầy” mà nói “Này là Mình Thầy”. Cũng vậy khi trao chén, Ngài không nói “Này là hình ảnh (symbolon) của Máu Thầy” mà nói “Này là Máu Thầy”. Ngài muốn rằng bánh và rượu, khi đã lãnh nhận ơn Thánh Thần, khi Thánh Thần đến, thì chúng ta không còn nhìn vào bản tính tự nhiên (physis) của chúng nữa mà chúng ta coi đó là Mình và Máu của Chúa chúng ta. Vậy chúng ta không được phép coi đó là bánh và chén rượu nữa, mà phải coi đó là Mình và Máu Đức Kitô ” (Bài giảng giáo lý 15,10-11: PG 66,713).

Cũng như đại đa số các giáo phụ Hy lạp, ông xem sự biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Đức Kitô là do lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần (Kinh Epiclèse) xuống trên lễ vật :

“Linh mục cầu xin Chúa Cha sai Thánh Thần đến và ân sủng xuống trên bánh và rượu để chúng ta nhận ra chính Mình và Máu Thánh Chúa là bảo chứng sự sống đời đời” (ibid. 16, 11).

Théodore khẳng định rằng khi rước lễ, người tín hữu lãnh nhận trọn vẹn Đức Kitô, chứ không phải một phần thân thể của Ngài :

“Mỗi người trong chúng ta cầm một miếng bánh nhỏ và tin rằng mình đón nhận trong miếng bánh ấy trọn vẹn Chúa Kitô. Người đàn bà loạn huyết, khi đụng tới gấu áo của Chúa, chứ không phải một phần thân thể của Chúa, mà đã nhận được một tặng phẩm thần linh, cho nên, nếu chúng ta không tin rằng trong một phần thân thể của Ngài, chúng ta lãnh nhận trọn vẹn bản thân Ngài, thì thật là kỳ lạ” (PG 66,561).

Theo ông, sự hiện diện thực sự của Chúa trong Thánh Thể được thực hiện vừa do sức mạnh thánh hoá của cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô vừa do lời cầu khẩn Thánh Thần (Epiclèse), lời cầu khẩn làm cho mọi người được hiệp nhất thành cộng đoàn hiệp thông thánh thể. Đối với ông, đời sống mới của Phép Rửa được nuôi dưỡng nhờ Thánh Thể (x. Bài giảng giáo lý, 15 và 16).

3.    Thánh Gio-an Kim khẩu (# 349 – 407)

Thánh Gioan-Kim Khẩu sinh tại Antiokia vào khoảng năm 349. Ngài được chọn làm giám mục Constantinople năm 397. Hai lần bị bắt đi lưu đầy. Trước khi trở thánh giám mục Constantinople, ngài đã theo học với Diodore thành Tarse (+ trước 394) và là bạn đồng môn của Thêodore thành Mopsueste. Nơi ngài, ta có thể thấy rõ ảnh hưởng của trường phái thần học Antiokia. Ngay trong giáo lý về bí tích Thánh Thể, ngài vẫn tỏ ra quan tâm trước hết đến các vấn đề luân lý đạo đức, tuy vậy, ngài vẫn không ngần ngại nhắc đến khía cạnh tín lý, như vấn đề về sự đồng nhất giữa hy tế thập giá duy nhất của Đức Kitô và các hy tế Thánh Lễ được cử hành nhiều lần trong Giáo Hội.

Ba điểm chính được thánh Gioan-Kim Khẩu nhấn mạnh hơn cả là sự hiện diện đích thực của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, tính chất Hy tế của Thánh Lễ và hoa quả đức ái của Thánh Thể.

Ngài thường xuyên căn dặn tín hữu phải có lòng kính sợ và yêu mến khi đến gần Bí tích Thánh Thể. Ngài gọi Bí tích Thánh Thể là “những mầu nhiệm đáng sợ” (Bài giảng 25 : PG 57,331) ; “những mầu nhiệm đòi hỏi lòng tôn kính và run sợ” (Bài giảng 25 : PG 49,391). Rượu sau khi truyền phép được gọi là “Máu châu báu” (Về chức tư tế 3,4 : PG 48,642), “ Máu gợi lên lòng kính sợ” (Bài giảng 82 : PG 58,746).

Bí tích Thánh Thể được gọi là “hy tế đáng sợ và kinh hãi” (Bài giảng 24 : PG 61,203), “hy tế đáng kinh hãi hơn cả” (Về chức tư tế 6,3 : PG 48, 661).

Khi giảng dậy giáo lý về Thánh Thể trong nhà thờ, ngài chỉ bàn thờ và nói : “Đức Kitô chịu sát tế ngự ở đây” (PG 49,381) ; “Cái chứa đựng trong chén, chính là máu chảy ra từ cạnh sườn Đức Kitô” (Bài giảng 24 : PG 61,200) ; “Hỡi bạn, hãy coi xác thân chịu sát tế mà bạn cầm trong tay ! hãy coi bạn đến gần thứ bàn nào ! Hãy nhớ bạn là tro bụi mà bạn được lãnh nhận thực sự Mình và Máu Đức Kitô” (PG 49, 361).

Thánh Gioan kim khẩu nhấn mạnh rằng chỉ có một hy tế đích thực là Chúa Kitô được hiến dâng hằng ngày, chứ không phải hôm nay có một hy lễ và ngày mai một hy lễ khác, luôn luôn là một hy lễ, vì thế, chỉ có một hy tế duy nhất. Chỉ có một hy tế đích thực là Đức Kitô được hiến dâng, dù được dâng ở nhiều nơi khác nhau, ở mọi nơi cũng chỉ có một Đức Kitô, nơi này trọn vẹn, nơi kia cũng trọn vẹn, chỉ có một thân thể duy nhất :

“Anh em đừng tưởng rằng, quanh năm linh mục phải thường xuyên tiến lên bàn thờ là do hy lễ của chúng ta thiếu công hiệu. Đúng là hàng ngày chúng ta dâng tiến hy lễ. Nhưng chúng ta chỉ làm như vậy là để tưởng nhớ cái chết của Đức Kitô ; bởi lẽ, tế vật thì chỉ có một, chứ không có nhiều… Chúng ta lúc nào cũng dâng tiến một hy lễ duy nhất, và hôm nay chúng ta không tiến dâng một hy lễ khác với hy lễ dâng tiến xưa kia, nhưng mỗi ngày chúng ta vẫn dâng tiến cùng một hy lễ duy nhất đó. Như vậy là chỉ có một hy lễ mà thôi. Bởi lẽ, nếu có nhiều hy lễ, mà người ta lại dâng tiến ở nhiều nơi, thì sẽ có nhiều Đức Kitô ! Nhưng không thể nào như thế được, bởi vì hy lễ dâng tiến bất cứ nơi nào cũng chỉ có một Đức Kitô duy nhất mà thôi, một Đức Kitô duy nhất toàn vẹn nơi đây cũng như nơi kia, bởi vì thân thể của Ngài thì chỉ có một. Đức Giêsu Kitô tuy được dâng tiến nhiều nơi khác nhau, nhưng chỉ có một thân thể mà thôi ; cũng vậy, bất cứ nơi đâu cũng chỉ có một hy lễ duy nhất mà thôi. Đức Giêsu Kitô là vị Thượng Tế đã dâng tiến lễ vật thanh tẩy chúng ta. Và cho đến ngày nay, chúng ta vẫn dâng tiến lễ vật mà xưa kia Ngài đã dâng tiến, một lễ vật không thể nào hao mòn. Chúng ta làm như vậy để tưởng nhớ sự việc đã diễn ra lúc đó, vì Ngài nói : “Anh em hãy làm như vậy để tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19) ;(Thư gửi tín hữu Do Thái, chương X, Bài giảng 17,3 : PG 63,131).

Về sự hiện diện thực sự của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, thánh Gioan-Kim khẩu cho rằng do lời Đức Kitô (Lời truyền phép) mà bánh và rượu trở nên Mình và Máu Đức Kitô. Ngài nói :

“Không phải con người làm cho các lễ vật trở thành Mình và Máu Đức Kitô, nhưng do chính Đức Kitô, Đấng đã chịu đóng đinh vì chúng ta. Vị linh mục, hiện thân của Đức Kitô, đọc lời truyền phép, nhưng hiệu quả và ân sủng là do Thiên Chúa. Chính lời “Này là Mình Thầy” biến đổi các lễ vật” (x. GL 1375).

Còn các linh mục chỉ là tôi tớ :

“Chúng tôi đảm nhận vai trò tôi tớ, còn chính Ngài mới là Đấng chúc phúc và biến đổi” (Bài giảng 82 : PG 58, 744).

Thánh Thể và đức ái :

Trong một bài giảng nổi tiếng, thánh Gioan-Kim khẩu đã làm nổi bật mối liên hệ giữa việc Chúa Giêsu hiện diện trên bàn thờ và hiện diện nơi người nghèo khó. Đây chính là linh đạo thánh thể của thánh nhân. Thánh Thể là trường học dạy về tình bác ái. Ngài đặt câu hỏi cho các tín hữu của ngài :

“Anh chị em có ước muốn tôn vinh Minh Thánh Chúa Kitô không ? Vậy thì anh chị em đừng rước Mình Thánh Chúa Kitô để rồi lại khinh dể Ngài trong các chi thể của chính Ngài, tức trong những người nghèo khó, những người không có gì che thân. Anh chị em đừng tôn vinh Ngài trong nhà thờ với những lụa là, rồi sau đó lại bỏ mặc Ngài ở ngoài đường đang lúc cóng buốt và trần trụi. Đức Kitô được lợi lộc gì từ bàn thờ đầy dẫy những chén vàng giữa lúc Ngài đang chết vì đói khát nơi những người nghèo khó ? Tiên vàn, anh chị em hãy cho những người đói khó được ăn no đủ, rồi sau đó còn lại gì hãy trang hoàng bàn thờ. Anh chị em sẵn lòng dâng cho Ngài chén thánh bằng vàng, rồi lại từ chối không chịu cho Ngài một ly nước lã hay sao ? Bàn thờ Chúa cần gì phải trang hoàng bằng vàng, trong lúc anh chị em không chịu dâng cho Ngài một ít vải cần thiết ? Vì thế, trong khi anh chị em trang hoàng nơi phượng tự thì cũng đừng đóng chặt cửa lòng trước người anh em đang đau khổ của anh chị em. Họ là đền thờ còn sống động và quý giá hơn nơi phượng tự của anh chị em” (Bài giảng 50,3-4 : PG 58, 508).

C.    CÁC GIÁO PHỤ LATINH

Nơi các giáo phụ La-tinh, tư tưởng căn bản về Thánh Thể là Mémorial : Thánh Thể là việc tưởng nhớ cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô.

1.    Thánh Cyprianô (210 – 258)

Thánh Cyprianô sinh tại Carthage khoảng năm 210 trong một gia đình ngoại giáo. Xuất thân từ một gia đình giầu có, ngài sớm trở thành một nhà hùng biện. Trở lại đạo khoảng năm 245, ngài phân phát gia tài cho người nghèo, và tuy không từ bỏ học thức của mình, ngài say mê Thánh Kinh. Ngài trở thành giám mục Carthage khoảng năm 248 hoặc 249. Bị đầy khỏi Carthage năm 257 và bị trảm quyết năm 258.

Chúng ta biết Cyprianô hầu như chỉ qua di sản văn chương của ngài, chủ yếu trong thời kỳ làm giám mục. Di sản này đặc biệt bao gồm một Tuyển tập các bức thư, (gồm 81 lá thư, trong đó có 16 thư trao đổi).

Tác phẩm quan trọng trong lịch sử thần học về Bí tích Thánh Thể là “Thư 63” của thánh Cyprianô với tựa đề : “về Bí tích chén của Chúa(De sacramento calicis Domini). Trong thư này, để chống lại nhóm lạc giáo Aquariens chỉ sử dụng nước, chứ không có rượu, trong thánh lễ, thánh Cyprianô cấm dùng nước để thay thế rượu. Máu cứu độ của Chúa Giêsu chỉ hiện diện trong chén thánh, khi chén chứa đựng rượu mà thôi, vì rượu đã được Cựu ước xem như biểu trưng của máu. Rượu quy hướng cách đặc biệt vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Thư này là tài liệu duy nhất trước Công đồng Nicée, hoàn toàn dành cho việc cử hành Thánh Thể.

Tư tưởng chủ yếu trong thư này là ý tưởng “hy tế” của Thánh Thể. Hy tế của linh mục lập lại bữa tiệc ly của Chúa, lúc mà chính Chúa đã tự hiến cho Chúa Cha :

“Nếu Đức Kitô là Chúa và là Thiên Chúa chúng ta làm Thượng tế của Chúa Cha, đã tự hiến cho Cha làm hy lễ, như vậy chắc chắn linh mục đóng vai trò của Đức Kitô, hoàn tất điều mà Đưc Kitô đã làm. Ngài dâng lên Chúa Cha, trong Giáo Hội, hy tế chân thật và viên mãn, như chính Đức Kitô đã hiến dâng” (thư 63,14).

Thánh Cyprianô gọi Bí tích Thánh Thể là “Bí tích cuộc khổ nạn của Chúa và ơn cứu chuộc chúng ta”. Vì Bí tích Thánh Thể là hy lễ, cho nên, nếu không có rượu trong chén, thì thân mình của Đức Kitô không được hiến dâng. Hy tế của Chúa không được cử hành với sự hiến thánh đúng đắn, nếu hy lễ của chúng ta không phù hợp với cuộc khổ nạn của Người (x. Thư 63,9).

Thánh Cyprianô coi bánh thánh là dấu chỉ sự kết hiệp giữa Đức Kitô và các Kitô hữu, dấu chỉ hiệp nhất trong Giáo Hội. Thánh Thể là Bí tích của sự hiệp nhất các Kitô hữu :

“Nhờ đó có hình ảnh sự duy nhất của dân kitô. Như nhiều hạt lúa mì gom lại, nghiền nát và hòa lẫn với nhau, làm thành một bánh duy nhất, cũng vậy, trong Đức Kitô là Bánh bởi trời, anh em hãy biết rằng chỉ có một Thân Mình, với Thân Mình ấy, số nhiều của chúng ta được hiệp nhất lại và hòa lẫn với nhau” (Thư 63,13).

Khi cử hành Thánh Lễ, dấu chỉ kết hiệp giữa Đức Kitô và các tín hữu còn được diễn tả qua việc linh mục pha nước vào rượu :

“Khi trong chén, nước được pha với rượu, đó là Dân Chúa hòa lẫn với Chúa Kitô, đó là đám đông tín hữu gắn liền và kết hiệp với Đấng mà họ tin”. (Thư 63,13).

Thánh Cyprianô nhiều lần nói đến sự hiện diện đích thực của Chúa trong Bí tích Thánh Thể và 2 hiệu quả của việc hiệp lễ : sức mạnh của các vị tử đạo và sự hiệp nhất các Kitô hữu (x. Thư 63,13 : PL 4,383-384).

2.    Thánh Ambrôsiô (330 – 397)

Ambrôsiô sinh tại Trèves khoảng năm 330 trong một gia đình quý tộc Rôma. Cha ngài là một Kitô hữu xuất thân từ một trong những gia đình nổi tiếng nhất của Nghị viện Rôma và lúc bấy giờ làm Tổng trấn xứ Gaules tại Trèves. Sau khi thân phụ qua đời vào năm 354, ngài được mẹ đưa về Rôma cùng với em trai là Satirô và em gái là Marcellina. Năm 370, Ambrôsiô được bổ nhiệm làm Tổng đốc (gouverneur) vùng Ligura và Emilia ở Milan. Năm 374, khi giám mục Aussentiô, người theo phái Ariô qua đời, nhiều cuộc tranh chấp nổi lên khiến vị tổng đốc phải dàn xếp. Lúc đó, một em bé la lên : “Ambrôsiô giám mục” và dân chúng hò reo đề cử ngài làm giám mục. Hoàng đế Valentinianô I chiều theo ý dân, chấp thuận cho Ambrôsiô lên kế vị. Vị tổng đốc liền được rửa tội, và tuần lễ sau, được tấn phong làm giám mục.

Trong tác phẩm “De mysteriis” (Về các mầu nhiệm), thánh Ambrôsiô nói khá nhiều về sự hiện diện đích thực của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Theo thánh nhân, chân lý chắc chắn về sự hiện diện đích thực được xây dựng trên chính lời của Chúa và được thực hiện do lời truyền phép. Theo ngài, sự hiện diện đích thực của Đức Kitô trong Thánh Thể là kết quả của sự biến đổi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa, nhờ quyền năng Lời hiến thánh của Chúa :

“Một lời chúc phúc của con người cũng có thể thay đổi bản chất của sự vật, phương chi là sự hiến thánh thần linh bằng chính những lời của Đấng Cứu Thế ! Bí tích mà anh em nhận lãnh được hoàn thành bởi Lời của Chúa Kitô – lời của Elia còn có thể khiến lửa từ trời xuống, lời của Đức Kitô lại không thể thay đổi bản tính của các yếu tố sao ? Anh em đã đọc thấy : “Ngài phán, mọi sự đều có, Ngài ra lệnh, và tất cả đều được tạo thành”. Lời của Đức Kitô có khả năng sáng tạo từ hư không, chẳng lẽ lời đó lại không biến đổi những sự vật đang có thành những sự khác được sao ? Biến đổi một vật thì dễ hơn sáng tạo ra nó” (Về các mầu nhiệm 9,52 : PL 16,406).

Linh mục đọc lời truyền phép, nhưng thực ra, chính là Đức Kitô đọc và chỉ Ngài mới có quyền năng biến đổi bánh và rượu trở nên Mình Máu Ngài :

“Bánh là bánh trước khi lời truyền được tuyên đọc… Thế thì lời nào đã làm cho việc truyền phép trở nên hiệu lực và lời ấy là lời của ai ? Đó là lời của Chúa Giêsu ! Mọi lời được đọc trước giây phút đó là lời của linh mục : ngài ca tụng Thiên Chúa, cầu nguyện cho các tín hữu, cho vua chúa và những người khác. Nhưng chính trong thời điểm mà bí tích cực trọng được thành hiện thực, thì không phải linh mục sử dụng những lời của mình, nhưng là lời của Chúa Kitô. Vì thế, chính những lời ấy làm nên bí tích… Hãy xem những lời của Chúa Kitô hiệu quả dường nào ! Thân thể Chúa Kitô không hiện diện trước khi truyền phép, nhưng hiện diện sau khi truyền phép. Vì chính Chúa tuyên đọc và thành sự. Ngài truyền lệnh và đã xảy ra” (x. Tv 33,9) [Về các bí tích IV,14-16 : PL 16,439]

3.    Thánh Augustinô (354 – 430)

Thánh Augustinô là một giáo phụ lớn nhất của Tây phương, không những vì số các tác phẩm đã biên soạn mà còn vì ảnh hưởng của ngài đến tư tưởng thần học trong lịch sử Giáo hội.

Augustinô sinh năm 354 tại Thagaste, xứ Numidie, nay là Souk-Ahras, Algérie. Cha ngài là người ngoại đạo (Patrixiô). Mẹ ngài là Monica, một người rất sùng đạo. Cuộc đời của thánh Augustinô (354-430) có thể được phân chia thành ba giai đoạn : (1) từ thiếu thời đến khi được rửa tội năm 387, khi đã ngoài 30 tuổi, (2) từ lúc trở lại đến lúc thụ phong linh mục năm 391, (3) thời gian thi hành tác vụ linh mục và giám mục

Thần học của thánh Augustinô về Bí tích Thánh Thể tựu chung xoay quanh ba điểm chính : sự hiện diện thực sự của Đức Kitô trong các dấu chỉ bí tích, việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô và mối tương quan giữa Thánh Thể và Giáo Hội.

-    Về sự hiện diện đích thực :

“Tôi không bỏ qua lời đã hứa với anh em. Tôi đã hứa với những anh em đã chịu phép Rửa tội là sẽ nói một bài về mầu nhiệm tiệc thánh của Chúa mà anh em đang thấy trước mắt và đã tham dự đêm vừa qua. Anh em có nghĩa vụ phải hiểu biết điều gì mình đã lãnh nhận, sẽ lãnh nhận và lãnh nhận mọi ngày. Bánh mà anh em thấy trên bàn thờ, một khi đã được lời Thiên Chúa thánh hiến, là Mình Thánh Đức Kitô. Chén thánh hay đúng hơn là rượu trong chén ấy, một khi đã được lời Thiên Chúa thánh hiến, là Máu Thánh Đức Kitô. Nhờ vào các phương thế này mà Đức Giêsu Kitô đã muốn ban cho chúng ta Mình và Máu Người đã đổ ra để tha tội cho chúng ta. Vậy, nếu anh em đã lãnh nhận Mình và Máu Người cách xứng đáng, anh em cũng trở nên điều mà anh em lãnh nhận” (Bài giảng 227)

-    Về hy tế Thánh lễ :

“Có người nghĩ : dâng cho bụt thần những hiến tế hữu hình là phải, còn đối với Thiên Chúa vô hình, chỉ nên dâng những hiến tế vô hình, như lòng thành kính của một tâm hồn trong sạch hay của một ý chí ngay thẳng. Đó là những vinh dự cao cả và hoàn mỹ tuyệt đối. Những người đó lầm tưởng hết. Họ không biết rằng hiến tế hữu hình phải tuỳ thuộc ở hiến tế vô hình như ngôn ngữ phải tuỳ thuộc tư tưởng. Khi ta cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa, thì những lời cầu nguyện và ca tụng ấy, tuy phát xuất từ đáy lòng, nhưng cũng phải biểu lộ bằng lời nói. Cũng vậy, khi ta dâng một của lễ hữu hình, thì lòng ta cũng phải dâng lên một của lễ vô hình. Chính vì thế mà Đức Giêsu Kitô, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, đã vui lòng mặc lấy hình thức tôi đòi, mặc dù do thiên tính, Người cũng là Đấng nhận của lễ như Chúa Cha, nhưng Người đã muốn đứng ra làm của tế lễ hơn là đứng ra nhận lễ tế, để không ai có thể nói được rằng lễ dâng kia có ý tôn kính một thụ tạo nào. Người là vị chủ tế, vừa là của lễ hiến tế. Đó là chân lý đang diễn ra dưới tấm màn nhiệm tích trong hiến tế mà Hội Thánh vẫn dâng hiến hằng ngày. Hội Thánh vì là thân mình của Đầu, nên cũng bắt chước Đầu mà tự hiến mình làm của lễ… Mọi hiến tế hình bóng xưa đã biến đi hết, để nhường chỗ cho hiến tế cao cả đích thực này” (Thành trì của Thiên Chúa X,19-20).

-    Tương quan giữa Thánh Thể và Giáo Hội

Bí tích Thánh Thể là nhiệm tích tình yêu (sacramentum pietatis), là hy tế đích thực (verum sacrificium) mà Giáo hội dâng lên Thiên Chúa mỗi ngày. Khi cử hành Thánh thể, Giáo hội dâng Mình và Máu Chúa Kitô, dâng bản thân Đức Kitô lên cho Thiên Chúa.

Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ hiệp nhất (signum unitatis), mối dây đức ái (vinculum caritatis), bởi vì nối kết tình yêu người tín hữu lại với tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Đó là hy tế đức ái, hy tế bình an. Hoa quả của hy tế ấy là tình yêu và sự bình an.

Hiệp lễ thiêng liêng là nỗ lực sống theo Thần Khí Chúa Kitô, là để cho Thánh Thần thúc đẩy và hướng dẫn. Augustinô nhấn mạnh đến “hiệp lễ thiêng liêng” cũng vì quan niệm thiêng liêng của ngài về hy tế. Hy tế đích thực là hành vi của linh hồn hướng về Thiên Chúa (x. Thành trì của Thiên Chúa 10,4-6). Sát tế các lễ vật không quan trọng bằng việc hiến dâng bản thân :

“Thánh lễ đích thực là hy tế, nhưng là hy tế nhiệm tích, là dấu chỉ thánh nhờ đó mà hy tế độc nhất của Đức Kitô trở nên hiện thực hằng ngày trong Giáo Hội, để các kitô hữu được thông phần. Nhờ dấu chỉ ấy và tác động của nó, mà kitô hữu mỗi ngày kết hiệp với nhau làm nên một thân mình tư tế và hy lễ là Giáo Hội” (Thành trì của Thiên Chúa 10,20).

Là một mục tử, thánh Augustinô nhấn mạnh đến chiều kích giáo hội của Bí tích Thánh Thể. Giáo Hội sống nhờ Thánh Thể. Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội và cho Giáo Hội.

“ Nếu các tín hữu cẩn thận cung kính Mình Thánh Chúa Kitô thì họ hiểu biết Mình người. Nếu họ sống bằng Thần Khí Chúa Kitô, thì họ phải trở nên Thân mình Người. Chỉ có Thân mình Đức Kitô mới có thể sống bằng Thần khí của Người. Vì thế, khi dạy cho ta biết bản chất của bánh này, ngài nói thêm : “Tất cả chúng ta chỉ là một tấm bánh và một thân thể”. Ôi ! Nhiệm tích tình yêu ! Dấu chỉ hiệp nhất ! Mối dây bác ái ! Ai muốn sống thì nên tự biết đâu là nguồn mạch sự sống. Họ phải đến đây, phải tin và rồi sát nhập vào đó để được sống” (Phúc âm Gioan, 26,13)

“Nếu anh em đã lãnh nhận Mình và Máu Người cách xứng đáng, anh em cũng trở nên điều mà anh em đã lãnh nhận. Thánh tông đồ đã nói : chỉ có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều, nhưng cũng chỉ là một thân thể. Anh em phải nhớ, khi lãnh nhận bánh thánh này, anh em phải quý trọng sự đoàn kết. Có phải một hạt miến làm nên bánh này đâu ? Phải có nhiều hạt chứ ? Trước khi thành bánh, chúng còn rời nhau, nước (rửa tội) đã làm cho chúng gắn chặt lại với nhau” (Bài giảng 227).

KẾT LUẬN

Chúng ta vừa tóm tắt tư tưởng của các giáo phụ về Bí tích Thánh Thể. Chúng ta thấy rằng đối với các ngài, Bí tích Thánh Thể thực sự là nguồn mạch, trung tâm và chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo, là mầu nhiệm rất thánh chỉ dành cho những người đã được thánh tẩy.

Đối với các giáo phụ, Bí tích Thánh Thể là Bí tích của sự gặp gỡ, gặp gỡ giữa Chúa và người tín hữu. Tiệc Thánh không phải là bàn tiệc thông thường nhưng là Bàn Tiệc của Chúa. Thánh Thể là lương thực thần linh, bảo chứng cho cuộc sống mai sau. Cử hành Thánh Thể là cử hành Lễ Tạ ơn và cử hành hy tế của Đức Kitô.

Đối với các giáo phụ, mầu nhiệm Thánh Thể tiên vàn là để sống, để gặp gỡ, để lãnh nhận, chứ không phải để lý luận.

Thánh Thể không chỉ như một hồng ân giữa những hồng ân khác, nhưng là một hồng ân tuyêt hảo, vì hồng ân đó chính là Chúa Giêsu.

II.    THẦN HỌC TRUNG CỔ

Vào thời này, ta đã thấy có hai lập trường khác nhau giải thích về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể : phái “duy thực” (Réalisme) và “duy biểu tượng” (Symbolisme). Phái “Duy biểu tượng” cho rằng trong Thánh Thể, Mình Máu Thánh Chúa chỉ là biểu trưng, chứ không phải có thực ; phái “duy thực”, còn gọi là nhóm Capharnaites hiểu Thánh Thể theo cách vật chất, thô thiển. Nói khác đi, theo nhóm Capharnaites, khi chúng ta rước lễ là chúng ta ăn thịt thật của Chúa Giêsu, thịt thật của Chúa Giêsu sẽ bị răng chúng ta nghiền nát, nhai.

1.     Paschase Radbert (+ 860)

Radbert là tu sĩ dòng Bênêđictô. Ông được bầu làm viện trưởng Corbie ở gần Soissons (Pháp). Ông đã đưa ra một tổng hợp đầu tiên về mầu nhiệm Thánh Thể trong tác phẩm “Liber de corpore et sanguine Domini” (Sách về Mình và Máu Chúa), xuất bản năm 844. Trong tác phẩm này, ông cố gắng tìm ra một con đường trung dung giữa phái “duy thực” và “duy biểu tượng”.

Tư tưởng chủ yếu của ông là nhấn mạnh đến sự đồng nhất giữa thân xác lịch sử (Corps historique du Christ) và thân xác của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể (Corps sacramentel du Christ). Nếu không có sự đồng nhất này thì thân xác bí tích của Đức Kitô chỉ là hình bóng và là một hình ảnh của thân xác lịch sử mà thôi. Nhưng dù có sự đồng nhất, thân xác Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể không hiện diện theo cách xác thể như con người lịch sử ở Capharnaum. Mình Thánh dù là thân xác lịch sử của Đức Kitô, nhưng không hiện diện theo nghĩa “xác thịt” mà là hiện diện cách thiêng liêng (présence spirituelle). Chính vì vậy, Thánh Thể vừa là thực tại vừa là hình bóng. Là thực tại vì thực sự chứa đựng Mình và Máu Thánh Chúa, là hình bóng vì nhắc tới hy tế thập giá. Điều chúng ta thấy bên ngoài là hình bóng và điều chúng ta tin bên trong là thực tại.

2.     Béranger thành Tours (988 – 1088)

Trong khi cuộc tranh luận đầu tiên chỉ xoay quanh về thân xác nào của Đức Kitô hiện diện trong Thánh Thể, thân xác đã được thụ thai trong lòng Đức Trinh nữ Maria, đã chịu đóng đinh, hay thân xác của Đấng đã phục sinh và được tôn vinh ? Điều này có nghĩa là trong cuộc tranh luận đầu tiên, không ai chối sự diện diện đích thực của Chúa Giêsu cả. Nhưng cuộc tranh luận thứ hai thì đã xoay quanh vấn đề hiện diện đích thực.

Ta có thể xem Béranger (988-1088) như người khởi đầu cuộc tranh luận gay gắt về sự hiện diện đích thực của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Từ năm 1047, ông trình bày ý kiến của ông về Bí tích Thánh Thể trong tác phẩm De sacra Coena (Về Tiệc thánh) và qua các thư từ trao đổi, ông phủ nhận việc biến thể và sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Thánh Thể.

Ông công nhận rằng bánh, sau khi đã được truyền phép, là Mình Thánh Đức Kitô, nhưng là thiên linh (spirituellement) chứ không phải chất thể (matériellement). Bánh rượu vẫn luôn là bánh rượu, cho dù có truyền phép, vì tùy thể không thể nào tách biệt khỏi bản thể được. Triết học đã ảnh hưởng trên cách suy nghĩ và lập luận của ông. Điều mà người tín hữu thấy trước mắt không phải là chất liệu của thân xác Đức Kitô mà chỉ là biểu tượng của thân xác đó (figura).

Mọi bản thể vật chất đều theo quy luật không gian. Thân xác Đức Kitô ở trên trời cũng không có luật trừ. Chính vì thế mà Đức Kitô không thể có mặt nơi nào khác ngoài Thiên quốc. Đức Kitô bất khả phân chia. Nếu Ngài hiện diện trọn vẹn trong một hình bánh, thì Ngài không thể hiện diện trên hàng triệu bàn thờ khác, và cũng không thể hiện diện trên trời.

Đối với Béranger, Đức Kitô không hiện diện cho giác quan nhưng chỉ hiện diện cho trí khôn, không qua hủy bỏ, nhưng là do đảm nhận (non sensualiter sed intellectualiter, non per absumptionem sed per assumptionem).

Béranger không chấp nhận rằng sau truyền phép có sự thay đổi “per absumptionem”, nghĩa là do “hủy bỏ”, mà chỉ có sự thay đổi “per assumptionem”, nghĩa là do “đảm nhận” ; bản thể bánh và rượu vẫn còn, và kết hợp đảm nhận Mình và Máu Thánh Chúa.

Béranger dùng những cách nói, xét dưới một khía cạnh nào đó, ngày hôm nay thần học có thể cho là hợp lý : sau truyền phép, các “elementa facta esse fidei et intellectui verum Christi corpus et sanguinem’ (đối với đức tin và lý trí, bánh và rượu trở nên thực sự Mình và Máu thánh Đức Kitô). Nhưng nếu đặt trong toàn bộ, tư tưởng của ông ngược lại thuyết “biến thể” (transsubstantatio), ông viết :

“Bánh được hiến thánh trên bàn thờ, vẫn giữ bản thể của bánh và là thân thể Đức Kitô, nghĩa là không hủy bỏ thực tại có trước, mà đảm nhận thực tại trước đó chưa có”.

Nếu dựa vào câu này, thì rõ ràng lập trường của ông không thể dung hợp với thuyết biến thể.

Chỗ khác, ông lại nói :

“Bánh thực sự là bản thể thân xác Đức Kitô, cho con mắt của tâm hồn bạn, chứ không phải cho con mắt của thân xác bạn, không phải cho bàn tay, cho răng của bạn”.

Trích dẫn trên cho thấy lập trường của ông nghiêng về biểu tượng hơn là thực tiễn.

Ông bị lên án nhiều lần tại các Công đồng địa phương như Công đồng Rôma, Công đồng Verceil, Công đồng Latran. Công đồng Latran yêu cầu ông chấp nhận một bản tuyên tín công nhận bánh và rượu sau khi được truyền phép không chỉ là một bí tích đơn thuần mà đích thực là Mình và Máu Đức Giêsu Kitô (DS 690). Béranger chịu ký, nhưng sau đó lại kháng nghị.

Năm 1079, tại Công Đồng Rôma, dưới sự chủ tọa của Đức Giáo Hoàng Grêgôriô VII, ông buộc phải chấp nhận một công thức tuyên tín nhấn mạnh một cách rõ ràng đến sự hiện diện hiện thực của Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể :

“Tôi là Béranger, thâm tâm tôi tin và miệng lưỡi tôi tuyên xưng rằng bánh và rượu đặt trên bàn thờ, nhờ lời cầu nguyện thánh thiện và những lời của Đấng Cứu Chuộc chúng ta, được hiến thánh, theo bản thể, thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta cách đích thật, đích thị và đem lại sức sống, rằng sau lời truyền phép bánh và rượu là Mình thật của Đức Kitô, sinh ra bởi Đức Trinh nữ, hiến tế để thế giới được cứu độ, chịu treo trên thập giá, ngự bên hữu Chúa Cha, và là Máu thật của Đức Kitô đã chảy ra từ cạnh sườn Người” (DS 700).

Để kết luận, chúng ta có thể nói rằng Béranger không chấp nhận thuyết “biến thể”. Ông minh nhiên phủ nhận từ ngữ “transsubstantiatio”.

3.     Thánh Tôma (1225 – 1274)

Thánh Tôma trình bày về Bí tích Thánh Thể trong cuốn Tổng luận Thần học, phần III, vấn nạn 73-77 (Summa theologia, tertia pars, q. 73-77) viết năm 1273. Về bí tích Thánh Thể, điều chính yếu là thánh Tôma đưa ra quan niệm thần học của ngài về thuyết biến thể.

1) Ý nghĩa và tên gọi của Bí tích (q. 73 ; a. 1-6) :

a. Bí tích Thánh Thể có mục đích bồi bổ đời sống thiêng liêng, tương tự việc bồi dưỡng đời sống thể lý.

b. Bí tích Rửa tội là nguồn gốc, là khởi điểm của đời sống thiêng liêng, là cửa ngõ dẫn vào các bí tích khác. Bí tích Thánh Thể hoàn tất đời sống thiêng liêng, là mục đích của mọi bí tích

c. Bí tích Rửa tội là bí tích của đức tin, Bí tích Thánh Thể là bí tich của đức ái

d. Bí tích Thánh Thể được gọi là “hy tế”, bởi vì tưởng niệm cuộc khổ nạn của Đức Kitô.

e. Bí tích Thánh Thể được gọi là “bí tích hiệp thông

f. Bí tích Thánh Thể còn được gọi là “của ăn đàng

g. Bí tích Thánh Thể được Đức Kitô thiết lập trong bữa tiệc ly

2) Thuyết biến thể ( q. 75, a. 2-7 ) :

a. Bản thể bánh và ruợu không còn tồn tại (q. 75, a. 2). Sau truyền phép, bản thể bánh trở nên bản thể Thân mình Đức Kitô. Khi một bản thể trở nên bản thể khác, liền sau đó bản thể đầu tiên không còn nữa. Trong Bí tích Thánh Thể, cũng vậy, sau truyền phép bản thể bánh không còn.

b. Mọi sự biến đổi chỉ có ở nơi bánh, chứ ở nơi Đức Kitô không có một sự biến đổi nào.

c. Đức Kitô ở trong bí tích theo cách bản thể, chứ không theo cách thể lượng không gian. Người cũng không ở trong bí tích như ở trong một nơi chốn

d. Bản thể bánh không còn tồn tại, thì trở nên gì ? (a. 4) : Bản thể bánh không tồn tại dưới dạng bí tích hoặc nơi nào khác, cũng không bị tiêu hủy, nhưng đã thay đổi thành Mình Đức Kitô. Sự biến đổi bản thể là do quyền năng của Thiên Chúa.

e. Tùy thể bánh và rượu vẫn tồn tại trong không gian, có thể thay đổi bề ngoài, cũng như có thể tiêu hoá đi. Còn Đức Kitô hiện diện mãi cho đến khi các tuỳ thể bánh và rượu tan biến đi (a. 5)

f. Bản thể bánh và rượu không còn tồn tại (a. 6)

g. Sự biến thể là tức thời (a. 7) : sau khi chủ tế đọc lời truyền phép, lập tức có sự biến thể.

3) Hiệu quả của Bí tích Thánh Thể (q. 79, a. 1-6) :

a. Ơn thánh hoá (a. 1) : Khi xuống trần gian, Đức Kitô đã mang đến đời sống ân sủng (x. Ga 1,17), cũng vậy, khi Ngài đến dưới hình thức bí tích trong con người, Ngài cũng ban cho họ đời sống ân sủng (x. Ga 6,58)

b. Bí tích Thánh Thể tưởng nhớ cuộc khổ nạn của Đức Kitô, nên cũng mang đến cho con người ân sủng mà cuộc khổ nạn đem lại.

c. Bí tích Thánh Thể dưỡng nuôi đời sống thiêng liêng

d. Bí tích Thánh Thể kết hiệp nhiều người trở nên một

e. Quyền được hưởng sự sống đời đời (a. 2)

f. Ơn tha tội (a. 3-6) : Bí tích tác động nhờ sức mạnh cuộc khổ nạn của Đức Kitô, nguồn suối và nguyên nhân của ơn tha tội.

III.    CÁC NHÀ CẢI CÁCH

1.     Wiclif: Tiền phong của các nhà cải cách

Là giáo sư Đại học Oxford, từ năm 1379 ông bắt đầu trình bày học thuyết về Thánh Thể và năm 1382, ông xuất bản tác phẩm De Eucharistia (Về Bí tích Thánh Thể) làm xôn xao dư luận nước Anh thời bấy giờ.

Ngày 21-5-1382, Tổng giám mục Canturbéry là Đức Guillaume de Courtenay triệu tập một Công đồng địa phương tại Luân Đôn kết án 10 luận đề trong các sách của Wiclif là lạc đạo. Trong số 10 luận đề bị kết án, có 3 luận đề liên hệ đến Bí tích Thánh Thể :

-    Bản thể bánh và rượu vẫn còn tồn tại sau truyền phép

-    Tuỳ thể không có khả năng hiện hữu nếu không có chủ thể sau khi truyền phép trong Bí tích này

-    Đức Kitô không hiện diện thể lý đồng nhất, thực sự và cụ thể trong Thánh Thể

Wiclif là giáo sư Đại học, thấm nhuần triết học Aristote và có khuynh hướng duy lý. Triết học Aristote quan niệm rằng bản thể và tùy thể không tách rời nhau được. Theo ông, cách giải thích của Giáo Hội “biến đổi từ bản thể này sang bản thể khác”“sự tồn tại của các tuỳ thể mà không cần đến bản thể” là phi lý.

Đối với ông, tự bản chất bánh và rượu vẫn là bánh và rượu, và chỉ là Minh và Máu thánh Chúa cách bí tích. Sau lời truyền phép, bánh vẫn là bánh (localiter et substantialiter), nhưng bánh này “tương hợp” (concomitanter) với Thân thể Đức Kitô. Thân xác này chỉ hiện diện cách bí tích (sacramentaliter) và được các tín hữu rước lấy cách thiêng liêng mà thôi (spiritualiter). Bánh và rượu vẫn tồn tại là bánh và rượu với tất cả các tuỳ thể của mình. Thân xác của Đức Kitô vẫn ở trên trời với tất cả đặc tính bản thể, xác thể và trương độ (substantialiter, corporaliter et dimentionaliter) và thân xác này không bao giờ bỏ trời, trừ khi đến ngày tận thế. Nếu như thân xác đó có hiện diện trong bánh và rượu thì chỉ có tinh cách bí tích và quyền năng mà thôi (virtualiter et sacramentaliter).

Wiclif cố gắng trình bày các tư tưởng này để chống lại những tấn công của người ngoại giáo cho rằng các linh mục có quyền “tạo ra” thân xác Chúa. Ông muốn minh chứng các linh mục không có quyền năng “tạo ra” thân xác Chúa gì cả.

Như vậy, tư tưởng của ông hoàn toàn đi ngược lại với giáo lý về biến thể.

2.     Ulrich Zwingli (1484 – 1531)

Quan niệm của Zwingli về sự hiện diện của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể thâu tóm vào những điểm chính sau đây :

-    Chúa Kitô chỉ hiện diện trong tâm trí người tham dự nhờ đức tin, vì thân xác của Chúa Kitô ở trên trời không thể xuống thế ;

-    Tấm bánh được bẻ ra biểu trưng cho Đức Kitô được hiến tế vì chúng ta và rượu biểu trưng cho máu của Người đổ ra vì chúng ta. Nhờ những dấu chỉ này, người tín hữu được gợi nhớ lại ơn cứu độ do Đức Kitô đem đến cho họ và đức tin của họ được củng cố hơn.

Theo Zwingli, sự hiện diện thực sự chỉ có cho đức tin, chứ không có trong thực tại. Đức tin này cũng là quy tắc chú giải Lời Chúa (“fides magistra et interpres verborum”). Khi chú giải chương VI của Tin Mừng Gioan, Zwingli đã đề ra một nguyên tắc hướng dẫn như sau : “Chính đức tin áp đặt ý nghĩa của đoạn văn này, nếu thực sự chắc chắn chỉ có một con đường cứu độ duy nhất là tin rằng Con Thiên Chúa là bảo chứng của ơn cứu độ chúng ta, và tin tưởng vào Ngài, đến nỗi để được ơn cứu độ, người ta không được gán một điều gì cho những yếu tố của trần gian, tức là những sự vật khả giác” (Dict. de Théol. cath., art. Zwingli, col. 3828). Ông còn nói mạnh hơn : “Đức tin đến từ Thiên Chúa vô hình và hướng tới Thiên Chúa vô hình. Thế nên nó là điều hoàn toàn xa cách cái khả giác. Tất cả những gì là vật thể, tất cả những gì là khả giác, đều không thể là đối tượng của đức tin” (ibid.).

Từ nguyên tắc trên đây, Zwingli cho rằng lời Chúa nói trong Ga 6 không phải là ăn thịt và uống máu Ngài, nhưng là ăn uống lời Tin Mừng bằng đức tin. “Các bạn thấy Mình và Máu Chúa Kitô không gì khác hơn là lời đức tin, tức là mình Người bị sát tế vì ta và máu Người đổ ra cho ta, đã cứu chuộc ta và giải hòa ta với Thiên Chúa. Nếu ta mạnh mẽ tin điều đó thì linh hồn ta được nuôi dưỡng và được tưới tắm bằng thịt và máu Chúa Kitô”(ibid. col. 3826). Zwingli còn trưng dẫn lời Chúa nhấn mạnh trong Ga 6,63 : “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Như vậy, người ta có thể căn cứ vào lời của chính Chúa Giêsu để bác bỏ mọi cách giải thích duy thực về sự hiện diện. Bánh chỉ tượng trưng cho thịt của Chúa. Rượu chỉ tượng trưng cho máu của Chúa. Người ta ăn uống không phải Mình Máu thật của Chúa, nhưng là ăn uống cách thiêng liêng.

Cách giải thích này cũng được Zwingli áp dụng vào lời truyền phép. Lời của Chúa : “Này là Mình Thầy” chỉ có ý nói rằng : đây là dấu chỉ hoặc biểu tượng thuần túy của thân xác Chúa (Hoc est corpus meum = Hoc significat corpus meum). Trong Phúc âm Đức Kitô cũng thường tuyên bố như thế : “Ta là cây nho” (Ga 15), “Ta là cửa” (Ga 10). Ta cũng đọc trong sách Xuất hành : “Con chiên là lễ Vượt qua”. Tất cả chỉ có nghĩa biểu trưng mà thôi. Tuy nhiên, nhờ đức tin của con người mà Chúa Kitô hiện diện cách thiêng liêng và nuôi dưỡng linh hồn họ.

Zwingli còn củng cố cách giải thích theo nghĩa biểu tượng này bằng cách nại tới Luca và Phaolô. Khác với Matthêu và Marcô, hai tác giả Luca và Phaolô ghi nhận lời Chúa Giêsu nói thêm sau lời truyền phép : “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19 và 1Cr 11,25). Do đó, đây chỉ là một nghi thức tưởng niệm thuần túy. Nhất là Zwingli dựa vào 1Cr 10,14-22. Phaolô quảng diễn ý tưởng về việc dự phần, chia sẻ hay hiệp thông (koinonia). Theo Zwingli, koinonia ở đây không hiểu theo nghĩa năng động là hiệp thông hay dự phần vào Mình Máu Chúa, nhưng theo nghĩa thụ động, tức là hiệp thông trong Giáo Hội, như thấy ở câu 17 (“vì tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể”). Việc các tín hữu chia sẻ cùng một tấm bánh chỉ muốn nói lên rằng họ chỉ là chi thể của cùng một thân thể, liên kết với nhau bằng một bí tích.

Zwingli cũng căn cứ vào đoạn Xh 12,11tt để biện minh cho cách giải thích của mình. Nếu bữa ăn Vượt Qua của người Do Thái biểu thị sự đi ngang qua của Giavê, thì cũng vậy, bánh trong bữa Tiệc Ly biểu thị lễ Vượt Qua Mới của Đức Kitô. Không thể hiểu cách khác, nếu nhớ rằng phép Thánh Thể được thiết lập trong khung cảnh lễ Vượt Qua của người Do Thái, và cả hai sự kiện tương ứng với nhau từng điểm một. Các Tông Đồ hẳn đã hiểu theo nghĩa biểu trưng này, chứ không hiểu là Chúa Giêsu ban cho họ Mình Máu thật của Ngài dưới hình bánh hình rượu.

3.     Martin Luther (1483 – 1546)

Khác với các bạn hay các đồ đệ thuộc nhóm Cải Cách, Luther luôn luôn khẳng định sự hiện diện thực sự, và mạnh mẽ bảo vệ quan điểm của mình. Luther chống lại cách giải thích của Zwingli.

Luther đã dựa vào đâu khi chủ trương sự hiện diện thực sự của Chúa ? Ông dựa vào đức tin của toàn thể Giáo Hội, nhất là dựa vào phân tích bản văn, vào nghĩa tự nhiên và trong sáng của chính lời Chúa nói : “Này là Mình Thầy”, “Này là Máu Thầy”. Người ta không thể đưa ra bất cứ lý do nào để hiểu những lời này khác với những gì chúng được nói ra. Ông viết : “Bản văn này không chỉ nói : Này là Mình Đức Kitô…, nhưng nó chỉ đích danh bánh được bẻ ra và nói : bánh này là Mình Đức Kitô, thậm chí : bánh chúng ta bẻ ra không chỉ là Mình Đức Kitô, mà còn là Mình Đức Kitô được phân phát”.Động từ “” (est)không thể tương đương với động từ “biểu thị” (significat), không thể hiểu theo nghĩa tượng trưng. Vào giây phút long trọng thiết lập một bí tích mà cũng là giao ước mới của mình, Đức Kitô gán cho những lời của Ngài một ý nghĩa được mọi người thừa nhận. Và nếu Ngài nói “Này là Mình Thầy” thì phải hiểu rằng đó chính là Thân Mình Ngài.

Về điểm này, Luther đã bảo vệ chủ trương của mình tới cùng. Sau nhiều cuộc tranh luận với các nhà Cải Cách khác, sau những cố gắng hòa giải của Bucer, năm 1537, Luther viết trong khoản 6 của Các điều khoản Smalkalde như sau : “Về bí tích bàn thờ, chúng tôi tin rằng bánh và rượu là Mình thật và Máu thật của Chúa chúng ta, rằng không chỉ các kitô hữu đạo đức, mà cả những người vô đạo cũng lãnh nhận nữa” (ibid., p. 175).

Nếu chủ trương của Luther về sự hiện diện dừng lại ở đó, thì không khác với đức tin Công Giáo. Tuy nhiên, những cách cắt nghĩa liên hệ tới sự hiện diện đã làm Luther xa rời đức tin này. Ta có thể thấy ba khác biệt chính trong quan điểm của Luther :

+ Phủ nhận sự biến thể (transsubstantiatio) vì ông coi đây chỉ là sản phẩm của kinh viện, không có trong Kinh Thánh. Mình và Máu của Chúa Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể không do “biến thể” và ông chấp nhận thuyết lưỡng-thể-đồng-tại (consubstantiatio, companatio, impanatio), theo đó bản thể bánh và rượu không biến đổi nhưng tồn tại đồng thời với Mình và Máu Chúa Kitô. Mình Chúa Kitô hiện diện cùng với (cum) bánh hoặc trong (in) bánh hoặc dưới (sub) bánh. Đó là một sự đồng-hiện-hữu, đồng-bản-thể, lưỡng-thể-đồng-tại. Bánh và Thân Mình Chúa Kitô, một cách nào đó, trở thành một hữu thể duy nhất. Luther viết :

“Cho dù thân mình và bánh là hai bản tính khác nhau, bản tính nào cho bản tính đó, và cho dù khi chúng tách biệt nhau, bản tính này chắc chắn không phải là bản tính kia, nhưng khi chúng kết hợp với nhau và trở thành một hữu thể mới mẻ đầy đủ, chúng mất đi sự khác biệt trong những gì liên hệ đến hữu thể mới mẻ độc nhất này … là vì bây giờ không còn thuần túy là bánh trong lò nữa, nhưng là bánh – xác thịt (pain–chair) hoặc bánh – thân mình (pain–corps), tức là bánh đã trở thành một hữu thể duy nhất và một sự vật bí tích duy nhất với thân mình Chúa Kitô” (ibid., p. 181).

+ Cắt nghĩa sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể bằng lý thuyết phổ-tại-tính (ubiquisme). Với bản tính thần linh, Đức Kitô hiện diện khắp nơi, nhưng chỉ hiện diện như là của ăncủa uống trong Bí tích Thánh Thể. Do đó, theo ông, không được cử hành Thánh Thể ngoài mục đích ăn uống này ;

+ Giới hạn sự hiện diện của Chúa lúc cử hành tiệc thánh và lúc rước lễ (in usu), có nghĩa là Đức Kitô chỉ hiện diện trong khi cử hành thánh lễ, nhưng sau khi cử hành thì Ngài không còn hiện diện nữa. Do đó, phải loại bỏ tất cả việc tôn thờ Thánh Thể.

Trong ba dị biệt này, dị biệt cơ bản liên hệ tới “biến thể”. Các dị biệt khác tùy thuộc vào đó.

Để biện minh cho quan điểm của mình, Luther nại tới Kinh Thánh. Bánh tồn tại vì Kinh Thánh nói tới bánh trong Thánh Thể. Phaolô chẳng hạn đã viết : “Khi ta cùng bẻ bánh, đó chẳng phải là dự phần vào thân thể Chúa sao ?” (1Cr 10,16). Như vậy cùng một lúc có cả bánh lẫn thân thể Chúa.

Theo cái nhìn của Luther thì bí tích Thánh Thể trong Giáo Hội thời ông đã “bị cầm giữ” đủ kiểu, do giáo lý và thực hành méo mó. Trong điều kiện đó, Luther đề xuất một chương trình cải cách, theo đó mọi người phải được lãnh nhận bí tích Thánh Thể dưới hai hình thức, thôi không sử dụng các phạm trù Aristote để giải thích sự hiện diện thực sự của Đức Kitô, phủ nhận tính chất hy tế và công trình của thánh lễ mà phải quan niệm thánh lễ như việc Thiên Chúa hoàn thành lời hứa với đức tin.

“Tôi van lạy đó, có điều gì là cấp bách, có lý do tôn giáo nào là bắt buộc, có lợi ích gì mà chúng ta lại cấm giáo dân không được rước lễ dưới hai hình thức, nghĩa là cấm một dấu hiệu hữu hình, trong khi ai nấy đều thừa nhận họ (giáo dân) cũng được bí tích (dù là) không có dấu hiệu. Nếu đã thừa nhận họ được bí tích – mà điều này mới là trọng yếu – thì tại sao lại không thừa nhận cho họ dấu hiệu, một chuyện thứ yếu ? Bởi lẽ trong mỗi bí tích, dấu hiệu xét như dấu hiệu là một điều thứ yếu không thể so sánh với thực thể của bí tích được. Vậy tôi xin hỏi, việc gì phải ngăn cấm không cho cái thứ yếu khi đã cho cái chính yếu ?”.

“Thật ra trong hơn mười hai thế kỷ, Giáo Hội đã tuyên xưng đức tin một cách đúng đắn, thế mà không có nơi nào, không có lúc nào các thánh giáo phụ nghĩ tới việc biến thể (transsubstantiatio) đó. Biến thể, một từ ngữ và mộng tưởng đến kỳ cục. Phải đợi cái gọi là triết lý Aristote đến xâm nhập Giáo Hội suốt ba trăm năm vừa qua.

Nhưng tại sao Đức Kitô lại không giữ cho thân thể của Người hiện diện trong chính bản thể của bánh, y như dưới các tùy thể ? Cứ lấy sắt và lửa mà xem, đó là hai bản thể nhập với nhau trong một miếng thép nung đỏ khiến cho phần nào của thép cũng vừa là sắt vừa là lửa. Huống hồ là thân thể hiển vinh của Đức Kitô, tại sao lại không thể hiện diện trong mỗi phần của bản thể bánh ?

Chúng ta phải nói sao trước những lập luận kiểu đó, một khi chúng ta nhận Aristote và huấn giáo phàm nhân làm tiêu chuẩn xét đoán các thực tại thánh thiêng cao vời ? Tại sao chúng ta lại không vứt bỏ cái thói tò mò đó, tại sao không đơn giản gắn bó với các lời của Đức Kitô, và chấp nhận mình không biết những gì xảy ra trong động tác đó, tại sao không hài lòng với việc nhờ Lời Chúa thân thể Đức Kitô thật sự hiện diện ? Chúng ta có nhất thiết cần phải hiểu hết các phương thức hoạt động của Thiên Chúa không ?”

“Xiềng xích thứ ba cầm tù bí tích này là sự lạm dụng cực kỳ phạm thánh đã làm cho ngày nay trong Giáo Hội không có điều gì phổ biến hơn, chắc chắn hơn quan niệm về thánh lễ như một việc thiện và một hy lễ”.

“Như anh thấy đó, Thánh Lễ – như ta thường gọi – là lời Thiên Chúa đã hứa với chúng ta là Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng ta, và lời hứa này là một lời hứa được cái chết của Con Thiên Chúa xác nhận. Quả là lời hứa và lời di chúc chỉ khác nhau ở chỗ là di chúc giả thiết cái chết của người đưa ra lời hứa. Và người làm di chúc chỉ là một người đưa ra một lời hứa trong trường hợp mình chết, còn một người đưa ra lời hứa là một người làm di chúc nhưng vẫn còn sống. Di chúc Đức Kitô để lại đã được phác họa trước trong tất cả các lời hứa của Thiên Chúa, từ lúc khởi nguyên thế gian. Thậm chí, tất cả các lời hứa cũ có hiệu lực là do lời hứa mới mà Thiên Chúa sẽ đưa ra trong Đức Kitô, và nền tảng của chúng cũng là ở đó. Đó là nguồn gốc của các từ rất thông dụng trong Kinh Thánh như Minh ước, Giao ước, di chúc của Chúa.

Theo bản chất, Thánh Lễ thật ra chẳng là gì khác ngoài những lời của Đức Kitô mà chúng ta vừa nhắc tới trên đây : “Anh em hãy cầm lấy mà ăn” vv…như thể chính người nói : này anh, con người tội lỗi, con người bị kết án, tôi nói chuyện với anh : chẳng phải do công trạng hay do nguyện ước của anh, và tôi hứa ban cho anh ơn tha thứ hết các tội lỗi của anh cùng với đời sống vĩnh cửu, nhờ tình yêu thuần khiết và nhưng không mà tôi dành cho anh và theo thánh ý của Đấng là Cha giầu lòng từ bi lân ái. Và để anh hoàn toàn chắc chắc về điều tôi đã hứa với anh một cách dứt khoát, tôi sẽ trao nộp chính thân mình tôi, tôi sẽ đổ máu, tôi sẽ lấy chính cái chết mà xác nhận lời tôi đã hứa và sẽ để lại cả mình lẫn máu của tôi làm dấu hiệu và vật nhắc nhớ tưởng niệm lời hứa đó. Mỗi khi anh dùng những thứ đó, hãy nhớ đến tôi, hãy loan truyền tình yêu và lòng nhân hậu tôi dành cho anh. Đó sẽ là cách anh tán tụng và cảm tạ Thiên Chúa.

Anh thấy đó, để cử hành Thánh Lễ sao cho xứng, chỉ đòi hỏi một điều duy nhất : đức tin, một đức tin lấy lời hứa làm điểm tựa vững vàng, tin tưởng rằng Đức Kitô nói thật khi nói lên những lời đó, và không chút nghi ngờ mình được tặng ban những phúc lộc vô biên đó”.

4.     Jean Calvin (1509 – 1564)

Calvin trình bày ý kiến của mình trong Traité de la Cène năm 1540 và xác định lý thuyết của mình trong phát hành lần cuối tác phẩm Institution de la religion chrétienne. Calvin chống đối sự hiện diện theo nghĩa công giáo : ông coi đó là một sự hạ nhục Đức Kitô được tôn vinh. Dù vậy, ông vẫn không coi Tiệc thánh là biểu trưng thuần tuý, nhưng chấp nhận một sự hiện diện nào đó mà đức tin nhận được. Sự hiện diện đó không thể mang tính thể lý được.

Quan điểm của Calvin là dung hòa giữa Zwingli và Luther, cộng thêm với những suy nghĩ riêng của ông. Giống như Luther, ông cho rằng Chúa Kitô hiện diện thực sự trong Thánh Thể và chỉ hiện diện trong lúc cử hành (in usu). Nhưng ông không đồng ý với Luther về cách giải thích sự hiện diện dựa vào lý thuyết phổ-tại-tính và về quan niệm lưỡng-thể-đồng-tại. Giống như Zwingli, Calvin nhấn mạnh đức tin, đến nỗi nếu không có đức tin thì không có sự hiện diện. Nhưng ông phủ nhận quan niệm của Zwingli về sự hiện diện thuần túy tượng trưng.“Chúng ta phải tuyên xưng rằng nếu sự thể hiện mà Thiên Chúa làm cho ta trong bữa Tiệc thánh là thật, thì bản chất bên trong của Bí Tích liên kết với những dấu chỉ hữu hình. Cũng như bánh được ban nơi tay ta, thân xác Đức Kitô cũng được chuyển đạt cho ta, để ta trở thành người dự phần vào đó

Đó cũng là một sự hiện diện “bản thể”. Calvin viết như sau : “Tất cả chúng ta cùng tuyên xưng rằng khi lãnh nhận bí tích này trong đức tin, theo lệnh Chúa truyền, chúng ta thực sự được dự phần vào bản thể riêng của Mình và Máu Đức Giêsu-Kitô” (ibid., p. 260).

Tuy nhiên “bản thể” ở đây không có nghĩa như Công giáo hiểu. Theo giáo lý công giáo, hiện diện bản thể là toàn thể Chúa Kitô cùng với nhân tính và thần tính của Ngài trong đó, đặc biệt nhấn mạnh sự hiện diện bản thể của Mình và Máu Chúa, tức là khía cạnh nhân tính. Calvin bác bỏ giáo lý ấy, vì, theo ông, Đức Kitô cùng với thân xác vinh hiển của Ngài đã lên trời, vào ngày Thăng Thiên, và chỉ xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết vào ngày tận thế, nên không thể đến kết hợp ở một nơi với những hình Thánh Thể. Hiện diện “bản thể” không phải là hiện diện bằng thân xác (présence corporelle), nhưng là hiện diện bằng thần lực của Chúa, bằng Thần Khí của Chúa. Có thể coi đó là một sự hiện diện thiêng liêng (présence spirituelle), vì có liên hệ với Chúa Thánh Thần. Chính nhờ Chúa Thánh Thần mà sự “liên kết” giữa Mình Máu Chúa Kitô và các dấu chỉ bí tích được thực hiện. Chúa Thánh Thần giống như một “con kênh hoặc ống dẫn qua đó tất cả những gì Chúa Kitô là và có xuống với ta” (ibid., p. 261). Vai trò của Chúa Thánh Thần được Calvin nhấn mạnh. Như vậy, khi ta lãnh nhận Thánh Thể thì, đúng ra, không phải là lãnh nhận thân xác của Chúa Kitô Phục Sinh, nhưng là Thần Khí của Ngài. Thần Khí này là dây liên kết (vinculum communicationis) các tín hữu với Chúa Kitô, giữa đức tin của người chịu lễ và Chúa Kitô ở trên trời, qua các dấu chỉ bánh rượu. Chúng ta lãnh nhận thần lực của Chúa Kitô mà như lãnh nhận chính thân xác của Ngài, như chính thân xác ấy đang hiện diện.

Cho đến cuối đời, Calvin vẫn mạnh mẽ tin vào sự hiện diện thực sự của Mình và Máu Chúa Kitô. Năm 1562, tức là hai năm trước khi mất, ông còn viết : “Cho dù thân xác Chúa Kitô ở trên trời, thì ở trần gian chúng ta vẫn được nuôi dưỡng thực sự bằng thân xác ấy, vì do quyền năng khôn dò và tỏa rộng khắp nơi của Thần Khí của mình, Chúa Kitô trở thành của ta đến nỗi Ngài ngự trong ta mà vẫn không thay đổi chỗ ở… Tôi không thấy có gì phi lý khi nói rằng chúng ta thật sự lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô, và như vậy Chúa Kitô là lương thực cho ta theo bản thể, miễn là chúng ta nhận rằng Chúa Kitô xuống với ta không chỉ qua các biểu tượng bên ngoài, mà còn nhờ tác động âm thầm của Thần Khí Ngài, để chúng ta lên với Ngài bằng đức tin”. (ibid., pp. 266-267).

IV.    CÔNG ĐỒNG TRIĐENTINÔ (13/12/1545 – 04/12/1563)

Công đồng Triđentinô đề cập đến Bí tích Thánh Thể trong ba phiên họp XIII, XXI và XXII trong bối cảnh chống lại phong trào Cải Cách.

Đối lại các lập trường của phe Cải Cách, Công Đồng Triđentinô trước hết triển khai và nhấn mạnh hai khía cạnh trong giáo lý công giáo có vẻ như bị đe dọa : sự hiện diện thực sự của Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể và tính chất hy tế của Thánh Lễ. Công đồng cũng bảo vệ và biện minh việc rước lễ dưới hình thức duy nhất là bánh. Các nghị phụ đã cần tới ba khóa họp mới đưa ra được những chương cắt nghĩa và những điều luật (canons). Nhưng lối trình bày của các ngài, một cách gần như tất yếu, chưa diễn tả được tính thống nhất nội tại liên kết các khía cạnh khác nhau của Bí tích Thánh Thể

1.     Phiên họp XIII (11/10/1551)

Công đồng đưa ra “Sắc lệnh về Bí tích Thánh Thể”, gồm 8 chương, 11 điều luật (canons)

-Chương 1 : về sự hiện diện đích thực của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta trong bí tích cực thánh.

“Trước hết, Thánh Công đồng truyền dậy và tuyên xưng cách tỏ tường rằng Chúa Giêsu Kitô hiện diện đích thực, hiện thực và cách bản thể (vere, realiter et substantialiter) như là Thiên Chúa thật và là người thật trong Bí tích Thánh Thể cực thánh, sau khi bánh và rượu được truyền phép. Quả là không có gì mâu thuẫn trong việc Đấng Cứu độ chúng ta theo cách hiện diện tự nhiên của Người hiện đang ngự bên hữu Chúa Cha trên trời, và theo bản chất của Người, Người cũng hiện diện cho chúng ta ở mọi nơi theo cách bí tích, cách thức hiện diện mà chúng ta không thể dùng lời để giải thích, thế nhưng chúng ta có thể nhận ra nhờ vào lý trí đã được đức tin soi sáng và vững tin, tất cả đều có thể đối với Thiên Chúa”

“Cha ông chúng ta, những kẻ sống trong Hội Thánh đích thật của Đức Kitô, khi trình bày về bí tích cực thánh này, đều tuyên xưng tỏ tường rằng Đấng Cứu Độ chúng ta đã thiết lập bí tích kỳ diệu này trong Bữa Tiệc cuối cùng. Sau khi đọc lời chúc tụng trên bánh và rượu, bằng lời lẽ minh mạch và rõ ràng, Người chứng thực rằng Người ban cho họ (các môn đệ) Mình và Máu Người. Những lời này đã được các phúc âm và thánh Phaolô lập lại, chứa đựng ý nghĩa rõ ràng và cụ thể như các giáo phụ đã hiểu. Thật là một sự xúc phạm, khi những lời này bị những kẻ thích tranh luận và sái trí chống lại ý thức của Hội Thánh để hạ thành những lối nói vô bổ, tượng hình, không đếm xỉa gì đến sự thật về Mình và Máu thánh Chúa Kitô” (DS 1636-1637)

Chương này cố ý chống lại Calvin và Zwingli.

-Chương 2 : Việc thiết lập Bí tích cực thánh (DS 1638)

Trong chương này, Công đồng nói về việc Đức Kitô thiết lập Bí tích Thánh Thể như dấu chỉ tình yêu của Ngài và về Bí tích Thánh Thể với ba chiều kích : tưởng niệm công trình cứu độ đã đuợc thực hiện trong quá khứ, thông ban ơn cứu độ trong hiện tại (= nuôi dưỡng và thanh luyện linh hồn) và loan báo sự viên mãn cánh chung (tương lai) :

“ Khi sắp rời bỏ thế gian để về cùng Cha, Chúa Cứu thế đã thiết lập Bí tích này, để vào trong đó tất cả sự phong phú của tình yêu thần linh mà Ngài dành cho nhân loại, nhắc lại những công phúc lớn lao của Ngài. Ngài đã ra lệnh cho chúng ta, khi lãnh nhận Bí tích ấy, cử hành việc tưởng nhớ đến Ngài, loan báo sự chết của Ngài, cho tới khi Ngài trở lại làm Đấng phán xét mọi loài. Đàng khác, Ngài cũng muốn Bí tích này trở nên của ăn thiêng liêng cho các linh hồn, thuốc giải độc chống lại tội lỗi, bảo đảm cho vinh quang của chúng ta trên trời, dấu chỉ của Thân thể mầu nhiệm mà Ngài là Đầu và chúng ta là chi thể” (DS 1638).

-Chương 3 : Vị trí ưu tiên của Bí tích Thánh Thể trên mọi Bí tích khác (DS 1639-1641)

-Chương 4 : Việc biến thể.

Chương này được viết để chống lại Luther. Mặc dù Luther không hoàn toàn phủ nhận sự hiện diện đích thực của Đức Giêsu trong Thánh Thể, nhưng ông cho rằng bản chất bánh rượu vẫn tồn tại. Công đồng chính thức sử dụng thuật ngữ “Biến thể” (Transsubstantiatio) :

“Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã phán dậy : điều Người dâng lên dưới hình bánh đích thực là Thân Mình Người. Hội Thánh luôn luôn xác tín như vậy, và thánh Công đồng một lần nữa tuyên bố : nhờ lời truyền phép trên bánh rượu, trọn vẹn bản thể bánh biến thành bản thể Mình Thánh Chúa Kitô và trọn vẹn bản thể rượu biến thành bản thể Máu Thánh Người ; Hội Thánh Công Giáo gọi việc biến đổi một cách đúng đắn và chính xác này là biến thể”. (DS 1642).

Công đồng dạy rằng Đức Kitô hiện diện trong Thánh Thể bắt đầu từ lúc truyền phép và kéo dài bao lâu hình bánh rượu còn tồn tại. Trong hình bánh cũng như trong hình rượu, Đức Kitô hiện diện trọn vẹn. Và trong bất cứ phần nhỏ bé nào cũng có trọn vẹn Mình và Máu Chúa. Việc bẻ bánh không phân chia Đức Kitô. (DS 1641).

-Chương 5 : việc phượng tự và tôn thờ bí tích cực thánh :

“Vì thế, không còn lý do nào để nghi ngờ rằng mọi kitô hữu, theo phong tục tiếp nhận từ bao đời trong Giáo Hội Công Giáo, phải cung kính dành cho bí tích cực thánh này sự phụng thờ tuyệt đối vốn phải dành cho Thiên Chúa thật. Quả vậy, không phải vì Đức Kitô đã thiết lập bí tích này làm của ăn nuôi dưỡng chúng ta mà chúng ta được phép coi nhẹ việc thờ kính”.

-Chương 6 : về việc bảo quản Thánh Thể và đem Mình Chúa cho bệnh nhân.

-Chương 7 : về việc chuẩn bị để xứng đáng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể.

-Chương 8 : về việc lãnh nhận bí tích kỳ diệu này

Tiếp theo là 11 điều luật (DS 1651 – 1661)

Điều 1 : “Kẻ nào phủ nhận rằng trong phép Thánh Thể cực thánh hàm chứa, một cách chân thật, thực sự và theo bản thể, (vere, realiter, substantialiter) Mình và Máu cùng với linh hồn và thiên tính của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nghĩa là hàm chứa Đức Kitô toàn diện, và nói rằng tất cả những điều đó chỉ hiện diện trong bí tích như trong một dấu chỉ, hoặc hình ảnh hay như một khả năng, kẻ đó phải bị loại” (DS 1651)

Điều 2 : “Kẻ nào nói rằng trong phép Thánh Thể cực thánh bản thể bánh và rượu còn tồn tại với Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và phủ nhận sự chuyển đổi kỳ lạ có một không hai đó khiến toàn bộ bản thể bánh trở thành Mình và toàn bộ bản thể rượu trở thành Máu của Người, trong khi các hình thể bánh và rượu vẫn còn đó – sự chuyển đổi mà Giáo Hội Công giáo, một cách rất thích hợp, gọi là biến thể (Transsubstantiatio)”, kẻ đó phải bị loại”.(DS 1652)

Điều 3 : “Kẻ nào phủ nhận rằng trong phép Thánh Thể đáng tôn kính Đức Kitô hiện diện dưới mỗi hình thể và trong mỗi một phần của từng hình thể, sau khi phân chia, kẻ đó phải bị loại” (DS 1653)

Điều 4 : “Kẻ nào nói rằng sau khi được truyền phép xong, Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, không hiện diện trong bí tích Thánh Thể kỳ diệu, mà chỉ hiện diện khi có người dùng đến khi rước lễ, còn trước đó thì không hiện diện và sau đó cũng không hiện diện, và nói rằng Mình thật của Chúa không lưu lại trong bánh lễ hay những mảnh bánh đã được truyền phép được giữ lại hay còn lại sau khi rước lễ, kẻ đó phải bị lọai”. (DS 1654)

Điều 5 : “Kẻ nào nói rằng hoa quả chính yếu của phép Thánh Thể cực thánh là ơn tha thứ tội lỗi hoặc nói rằng phép Thánh Thể không đem lại hiệu quả nào khác, kẻ đó phải bị loại” (DS 1655)

Điều 6 : “Kẻ nào nói rằng trong phép Thánh Thể cực thánh, người ta không được tôn thờ Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa, bằng một phụng tự tuyệt đối, dù là bề ngoài, do đó không được tôn kính Người bằng những nghi lễ long trọng đặc biệt, không được rước kiệu trọng thể, theo nghi thức hay tập quán đáng khen và phổ biến của Hội Thánh, không được đưa Người ra công khai cho dân chúng tôn thờ, và những ai thờ phượng Người là những kẻ thờ ngẫu tượng, kẻ đó phải bị loại” (DS 1656)

Điều 7 : “Kẻ nào nói rằng không được phép lưu giữ Thánh Thể cực thánh trong nhà tạm mà nhất thiết phải phân phát cho người dự lễ ngay sau khi truyền phép, hay không được phép cung kính đem Thánh Thể đến cho bệnh nhân, kẻ đó phải bị loại” (DS 1657)

Điều 8 : “Kẻ nào nói rằng người ta chỉ ăn một cách thiêng liêng Đức Kitô tỏ bày trong phép Thánh Thể, chứ không ăn một cách bí tích và thực sự, kẻ đó phải bị loại” (DS 1658)

Điều 9 : “Kẻ nào phủ nhận rằng khi đã đến tuổi biết phân biệt, các kitô hữu, cả nam lẫn nữ, mỗi người bó buộc phải rước lễ hàng năm, ít ra là vào lễ Phục sinh, chiếu theo giới răn của Hội Thánh, Mẹ chúng ta, kẻ đó phải bị loại”. (DS 1659)

Điều 10 : “Kẻ nào nói rằng linh mục cử hành Thánh Lễ không được phép tự cho mình rước lễ, kẻ đó phải bị loại” (DS 1660)

Điều 11 : “Kẻ nào nói rằng một mình đức tin cũng đủ để chuẩn bị rước bí tích Thánh Thể cực thánh, kẻ đó phải bị loại”.

Để tránh cho người ta rước bí tích cực trọng này một cách bất xứng, do đó đáng phải chết và bị kết án, Công đồng thánh này quy định và tuyên bố rằng những ai bị ý thức tội trọng dằn vặt, dù xét mình có ăn năn sám hối đến đâu đi nữa, thì nhất thiết trước đó vẫn phải lãnh nhận bí tích giải tội, nếu gặp được một cha giải tội.

Kẻ nào cả gan dạy dỗ, rao giảng hay khăng khăng quả quyết ngược với quy định trên, hay thậm chí bảo vệ lập trường của mình trong các tranh luận công khai, kẻ đó tức khắc phải bị tuyệt thông”. (DS 1661)

2.     Phiên họp XXI (1562)

Công đồng đưa ra giáo lý về việc rước lễ dưới hai hình và việc rước lễ của trẻ nhỏ chưa đủ trí khôn, gồm 4 chương và đồng thời ban hành 4 điều luật liên quan đến việc rước lễ dưới hai hình và việc rước lễ của trẻ nhỏ chưa đủ trí khôn.

-Chương 1 : Các tín hữu và linh mục không dâng lễ, theo luật của Thiên Chúa, không buộc phải rước lễ dưới hai hình (DS 1726-1727)

“Thánh Công Đồng được Chúa Thánh Thần dạy dỗ, Thánh Thần của khôn ngoan và sáng suốt, Thánh Thần của hướng dẫn và đạo đức ; thánh Công Đồng tuyên bố : không có luật nào của Thiên Chúa đòi buộc các tín hữu và linh mục không dâng lễ phải lãnh nhận Thánh Thể dưới hai hình cả, và Công Đồng cũng không nghi ngờ về việc này cũng như cho là xúc phạm đến đức tin khi nói rằng việc rước lễ dưới một hình cũng đủ cho ơn cứu độ. Dù Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trong buổi tiệc ly đã thiết lập và trao ban cho các tông đồ bí tích cực trọng này dưới hai hình dạng bánh và rượu. Dù đã được thiết lập và để ban sức mạnh, thì cũng không buộc các tín hữu phải lãnh nhận hai hình dạng, như lệnh truyền của Chúa. Các lời của Chúa trong chương 6 Phúc âm Gioan, theo như các giáo phụ và tiến sĩ hiểu và giải thích khác nhau, cũng không thể kết luận rằng Chúa đòi buộc phải lãnh nhận cả hai hình dạng. Chính Chúa phán : “Nếu các ngươi không ăn thịt và uống máu Con Người, các ngươi không có sự sống nơi mình” và Người cũng nói : “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Đấng đã nói : “Ai ăn thịt và uống máu Tôi sẽ được sống muôn đời”, Đấng ấy cũng đã nói : “bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Đấng đã phán : “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”, Đấng ấy cũng đã nói : “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (DS 1726-1727).

-Chương 2 : Về quyền của Hội Thánh trong việc ban phát Thánh Thể, thiết đặt hay thay đổi (DS 1728)

“Thánh Công Đồng cũng tuyên bố : Hội Thánh luôn có quyền đối với việc ban phát, thiết đặt hay thay đổi mà không đụng chạm gì đến bản chất của các bí tích ; điều thay đổi này là nhằm vào việc tôn kính xứng đáng đối với các bí tích hay vì lợi ích cho những kẻ lãnh nhận, tùy theo thời gian, nơi chốn và hoàn cảnh liên hệ. Điều này cũng được thánh tông đồ nói rõ ràng : “Người ta phải nhìn chúng tôi như những thừa tác viên của Đức Giêsu Kitô và như những kẻ ban phát mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1Cr 4 và 6). Thánh tông đồ đã sử dụng quyền này trong nhiều trường hợp và đặc biệt đối với bí tích này, khi ngài ra lệnh nhiều điều về cách thức sử dụng, ngài thêm : “Tôi sẽ sắp xếp những gì còn thiếu sót khi tôi trở lại” (1Cr 11). Mẹ Hội Thánh cũng biết đến quyền quản trị bí tích, cho dù thói quen trong Hội Thánh ngay từ đầu đã lãnh nhận cả hai hình dạng, dù vậy, theo thời gian, thói quen này cũng đã được thay đổi trong nhiều nơi, dựa theo nhiều suy luận hợp lý để xác nhận việc lãnh nhận Thánh Thể dưới một hình dạng và đã phổ biến thánh luật, không được phép phủ nhận, không được thay đổi tùy thích mà không có phép của Hội Thánh” (DS 1728).

-Chương 3 : Dù lãnh nhận Thánh Thể dưới hình dạng bánh hay hình dạng rượu, người tín hữu vẫn rước lấy trọn vẹn Đức Giêsu Kitô và trọn vẹn bí tích khả kính (DS 1729)

“Thánh Công Đồng cũng tuyên bố rằng : như đã nói, trong buổi tiệc ly, Đấng Cứu chuộc chúng ta đã thiết lập và trao ban bí tích này cho các tông đồ dưới hai hình dạng, nhưng phải tuyên xưng rằng dù lãnh nhận Thánh Thể dưới một hình dạng, người tín hữu cũng rước lấy Đức Giêsu Kitô cách trọn vẹn và cả bí tích khả kính. Những người chỉ lãnh nhận một hình dạng cũng có đầy đủ ân sủng cần thiết cho ơn cứu độ” (DS 1729)

-Chương 4 : Các trẻ em chưa đủ trí khôn không buộc giữ luật rước lễ (DS 1730).

“Thánh Công Đồng tuyên bố : trẻ em chưa đủ trí khôn không buộc phải giữ luật rước lễ. Khi được tái sinh bằng nước Rửa tội, các em đã được tháp nhập vào Chúa Kitô, nên vào tuổi này, các em không thể mất ân sủng làm con Thiên Chúa được. Thánh Công Đồng tuyên bố điều này không phải là để kết án nơi này hay nơi khác ; trong quá khứ đã có thói quen này. Các giáo phụ cũng đã tìm được những lý do trong thời các ngài để làm điều đó, nhưng phải tin vững chắc rằng không phải vì sự cần thiết cho ơn cứu độ mà các ngài đã làm” (DS 1730)

Phiên họp này cũng ban hành 4 điều luật :

Điều 1 : “Kẻ nào nói rằng do giới lệnh của Thiên Chúa hay để được ơn cứu độ, nhất thiết tất cả các Kitô hữu phải lãnh nhận hai hình thức của bí tích Thánh Thể cực thánh, kẻ đó phải bị loại” (DS 1731)

Điều 2 : “Kẻ nào nói rằng Hội Thánh Công Giáo không hội đủ lý lẽ chính đáng và hợp lý để ban phát Bí tích Thánh Thể dưới một hình dạng cho giáo dân và các linh mục không dâng lễ, hay bảo rằng Hội Thánh đã sai lạc, kẻ đó phải bị loại” (DS 1732)

Điều 3 : “Kẻ nào phủ nhận rằng Đức Kitô, nguồn suối và tác giả mọi ân sủng, được lãnh nhận trọn vẹn và nguyên vẹn dưới một hình dạng của bánh, bởi vì, như có kẻ khẳng định sai lạc, Người phải được rước lấy dưới cả hai hình dạng, theo như chính Đức Kitô đã quy định, kẻ đó phải bị loại” (DS 1733)

Điều 4 : “Kẻ nào nói rằng trẻ em khi chưa đủ trí khôn cũng cần thiết phải lãnh nhận Bí tích Thánh Thể, kẻ ấy phải bị loại” (DS 1734).

3.     Phiên họp XXII (17/09/1562)

Công đồng đưa ra giáo lý về Thánh Lễ với “Sắc lệnh giáo lý về hy tế Thánh Lễ”, gồm 9 chương và 9 điều luật.

Sau đây là bản văn :

- Nhập đề :

“Thánh Công Đồng chung Triđentinô quy tụ hợp pháp, dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần, cùng với sự hiện diện của đại diện tông tòa. Để giáo lý cổ truyền về mầu nhiệm cao cả là Bí tích Thánh Thể tồn tại trọn vẹn và tinh tuyền ở mọi phần trong Hội Thánh Công Giáo, tránh khỏi mọi lệnh lạc và sai lầm. Được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, Công Đồng tuyên bố cần phải dạy rõ cho các tín hữu về Bí tích Thánh Thể như hy tế thực sự và duy nhất” (DS 1738)

-Chương 1 : Việc thiết lập Hy tế Thánh lễ. (DS 1739-1742)

“Theo chứng cớ của thánh Phaolô, vì sự bất toàn của chức tư tế thuộc chi tộc Lêvi, nên không có gì toàn hảo trong Cựu ước ; thế nên, Thiên Chúa Cha nhân từ đã đặt một vị tư tế khác “theo phẩm hàm Menkixêđê” (St 14,18 ; Tv 109 ; Dt 7,11), đó là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng có khả năng hoàn tất và hướng dẫn mọi người cần được thánh hiến, đến sự công chính toàn hảo (Dt 10,14).

Vì Thiên Chúa và là Chúa chúng ta đã một lần chịu chết trên bàn thờ thập giá làm của lễ hiến tế dâng lên Thiên Chúa, để cứu độ muôn người. Và để cái chết không xóa bỏ chức tư tế, nên trong đêm bị nộp, Người đã để lại cho Hiền Thê của Người là Hội Thánh một hy tế khả giác như bản tính loài người đòi buộc. Hy tế đó trình bày lại hy tế đổ máu đã được dâng một lần trên thập giá, và làm cho việc tưởng niệm hy tế này tồn tại cho đến tận cùng thời gian và giúp chúng ta lãnh nhận được sức mạnh mang lại ơn cứu độ để được tha thứ mọi tội lỗi mà chúng ta phạm hàng ngày.

Trong buổi tiệc ly, ngay trong đêm bị nộp, Người tự tuyên bố mình là tư tế đời đời theo phẩm hàm Menkixêđê ; Người đã hiến dâng lên Thiên Chúa Cha Mình và Máu Người dưới hình dạng bánh rượu, trao ban cho các tông đồ mà Người đã đặt làm linh mục của giao ước mới, để họ hưởng dùng dưới các biểu trưng đó. Người ra lệnh cho họ và những kẻ kế nhiệm họ trong chứ vụ tư tế phải dâng hy tế này, khi Người bảo : “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,19 ; 1Cr 11,24). Đây là điều Hội Thánh Công Giáo luôn hiểu và truyền dậy như thế. Vì sau khi cử hành lễ với con chiên Vượt qua cũ mà con cái Israel sát tế để tượng nhớ cuộc Xuất Hành, Người htiết đặt con chiên Vượt qua mới là chính bản thân Người ; Người tự để mình được các linh mục nhân danh Hội Thánh dâng lên dưới những dấu chỉ khả giác, để tưởng nhớ đến việc Người lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha khi Người đổ máu ra cứu chuộc chúng ta, kéo chúng ta ra khỏi quyền lực tối tăm và đưa chúng ta vào vương quốc của Người (Cl 1,13).

Đây là lễ vật tinh tuyền mà kẻ dâng lên không được phép làm dơ bẩn vì sự bất xứng hay do ý xấu ; đây là lễ vật mà Chúa đã nói trước qua miệng ngôn sứ Malakia : “Ở khắp nơi, người ta dâng lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta, bởi vì Danh Ta thật cao cả giữa chư dân” (Ml 1,11). Thánh tông đồ Phaolô cũng đã nói rõ ràng về hy tế này, khi viết cho giáo đoàn Côrintô, ngài nói : “Anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỷ được” (1Cr 10,21), ngài hiểu bàn tiệc chính là bàn thờ. Đó cũng chính là lễ vật đã được báo trước bằng nhiều lễ vật ở thời của luật tự nhiên và thời của Lề Luật ; lễ vật này bao gồm tất cả những thiện hảo mà các lễ vật kia biểu trưng ; chính vì thế, lễ vật này được xem như là hoàn tất và viên mãn của các lễ vật trước” (DS 1379-1742)

Trong chương này, Công đồng minh chứng Thánh Lễ là hy tế đích thực, dựa vào việc thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Công đồng minh chứng rằng quan điểm coi Thánh Lễ là hy tế không trái ngược với giáo lý của thư Do Thái về tính duy nhất của chức tư tế và hy tế của Đức Kitô, trái lại còn được xây dựng trên đó và bảo đảm sự hiện đại trường tồn cho đến ngày cánh chung. Để cứu chuộc các tội nhân của mọi thời đại cho đến tận thế, Đức Kitô phải thể hiện luôn mãi chức tư tế duy nhất và tối hậu của Ngài bằng cách “hiện tại hóa” không ngừng hy tế độc nhất ở trên núi Sọ. Chính vì thế, Ngài đã thiết lập cho Giáo hội, trong bữa Tiệc Ly, một hy tế hữu hình để “biểu lộ” Hy tế mà Ngài đã dâng một lần duy nhất trên thập giá, để ghi nhớ đời đời và để ứng dụng hành vi cứu thế ban ơn tha thứ các tội lỗi hằng ngày của chúng ta. Ngay sau khi hiến dâng lên Chúa Cha, dưới dấu chỉ bí tích Mình và Máu Ngài như là hy tế, Đức Kitô truyền lệnh cho các môn đệ làm để tưởng nhớ đến Ngài. Như vậy, Bí tích Thánh Thể vừa là Hồng ân lớn nhất của Thiên Chúa cho nhân loại vừa là sự dâng hiến lớn nhất của nhân loại cho Thiên Chúa.

Hy tế thánh thể đã được thiết lập để “hiện tại hóa” hy tế thập giá. Đây không phải là một hy tế mới, cạnh tranh với hy tế thập giá, mà là một “phương thế bí tích” để gìn giữ trong Giáo Hội sự hiện diện tác động và hiện tại của thập giá.

-Chương 2 : Hy lễ hữu hình là hy lễ đền tạ cho kẻ chết và người sống (DS 1743)

“Vì chính Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự hiến một lần duy nhất trên bàn thờ thập giá với máu đào của mình, được chứa đựng và hiến tế cách không đổ máu trong hy tế linh thiêng được cử hành nơi Thánh Lễ. Thánh Công Đồng tuyên bố : hy lễ này là hy lễ đền tạ, được dâng lên “để chúng ta được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4,16), khi chúng ta tiến đến Thiên Chúa với tâm hồn ngay thẳng, đức tin chân chính, tinh thần kính sợ và thành tâm sám hối. Và khi Chúa giao hòa với chúng ta nhờ việc dâng hy lễ này, Người sẽ ban cho chúng ta ân sủng và hồng ân sám hối, tha thứ lỗi lầm lớn lao của chúng ta. Chỉ vì là một hy lễ duy nhất, cũng là hy lễ xưa đã được hiến dâng nơi thập giá, nay lại được các linh mục dâng lên nhờ chức vụ, chỉ có khác là cách dâng mà thôi. Nhờ vào hy lễ không đổ máu được dâng lên mà chúng ta lãnh nhận được mọi hiệu quả của hy lễ đổ máu xưa ; hy lễ không đổ máu không thu hẹp hiệu năng của hy lễ đổ máu. Chính vì thế, theo như truyền thống của các tông đồ, hy lễ này được dâng lên không những để đền tạ tội lỗi, hình phạt, đền bù và những nhu cầu khác của các tín hữu, nhưng còn cho cả những người đã yên nghỉ trong Đức Kitô, những người chưa được thanh luyện trọn vẹn” (DS 1743)

- Chương 3 : Thánh Lễ để kính nhớ các thánh.(DS 1744)

“Hội Thánh có thói quen dâng thánh lễ để tôn kính và tưởng nhớ các thánh. Nhưng Hội Thánh cũng dạy rằng chúng ta dâng hy lễ là dâng lên Thiên Chúa là Đấng ngự trị trên các thánh, chứ không dâng cho các thánh. Chính vì thế, vị linh mục không nói : Lạy thánh Phêrô ! Lạy thánh Phaolô ! con dâng ngài hy lễ này, nhưng là tạ ơn Thiên Chúa vì chiến thắng của các ngài và cầu xin các ngài che chở, để khi chúng ta kính nhớ các ngài ở dưới đất, các ngài cầu bầu cho chúng ta ở trên trời” (DS 1744).

-Chương 4 : Lễ quy (DS 1745)

“Sự thánh phải được bảo quản cách thánh thiện. Và không có gì thánh thiện hơn hy lễ này ; thế nên, Hội Thánh Công Giáo đã thiết đặt lễ quy này từ bao thế kỷ nay, để có thể dâng hiến và lãnh nhận hy lễ cách xứng đáng và tôn kính. Lễ quy này hoàn toàn không có gì sai lạc và chỉ chứa đựng những gì thánh thiện và đạo đức, giúp tâm hồn con người dâng hy lễ hướng về Chúa. Lễ quy được đúc kết từ Lời Chúa, từ truyền thống các tông đồ và những định chế của các vị thánh giáo hoàng” (DS 1745)

- Chương 5 : Về những nghi thức của Thánh Lễ. (DS 1746)

“Do bản tính con người không thể dễ dàng vươn lên suy niệm về Thiên Chúa, nếu không được trợ giúp từ bên ngoài, cho nên Hội Thánh, hiền mẫu của chúng ta đã lập ra một số nghi thức, theo đó phải đọc thầm một vài lời trong thánh lễ và đọc to hơn lên một số lời khác. Giáo Hội cũng đưa thêm một số nghi thức (can. 7), nghi thức ban phép lành, thắp đèn sáng, dâng hương, lễ phục và nhiều điều khác tương tự, đúng theo lời dạy và truyền thống các tông đồ. Những điều đó sẽ đề cao vẻ uy nghiêm của hy lễ cao trọng này và bằng các dấu hiệu hữu hình của tôn giáo và lòng đạo đức, se thúc đẩy tâm hồn các tín hữu đến chỗ chiêm ngưỡng các mầu nhiệm cao siêu tiềm ẩn trong hy lễ đó”(DS 1746)

- Chương 6 : Thánh Lễ, trong đó chỉ một mình linh mục rước lễ. (DS 1747)

“Thánh Công Đồng ao ước rằng các tín hữu tham dự thánh lễ không những khao khát trong tâm hồn, nhưng còn rước lấy Thánh Thể, để họ được thông phần cách phong phú vào hiệu quả của hy tế cực thánh này. Nếu không được như thế, Công Đồng cũng không kết án hay cho là không hợp pháp những thánh lễ mà trong đó chỉ có linh mục rước lễ mà thôi ; Công Đồng cho phép và khuyến khích. Các thánh lễ này phải được công nhận là thánh lễ chung, một mặt, chỉ vì các người tham dự rước lễ cách thiêng liêng, mặt khác, vì linh mục như thừa tác viên chính thức của Hội Thánh, không dâng thánh lễ cho riêng cá nhân mình, nhưng cho mọi tín hữu là những người thuộc về Nhiệm Thể Đức Kitô” (DS 1747).

- Chương 7 : Về nước được pha với rượu trong Thánh Lễ. (DS 1748)

“Cuối cùng, thánh Công Đồng khuyến cáo các linh mục về điều lệ của Hội Thánh, là phải pha nước vào rượu được dâng trong chén thánh, chỉ vì Đức Kitô đã làm như thế và đồng thời cũng vì từ cạnh sườn của Người có cả máu cùng nước chảy ra. Mầu nhiệm này được tưởng niệm trong việc pha nước này. Việc pha nước cũng biểu trưng việc dân thánh được kết hiệp với Đức Giêsu Kitô, thủ lãnh của họ, chỉ vì trong sách Khải Huyền của thánh Gioan, các dân tộc được biểu trưng bằng nước (Kh 17,1.15)” (DS 1748)

- Chương 8 : Thánh Lễ không cần phải được dâng theo ngôn ngữ địa phương ; phải giải thích cho dân mầu nhiệm thánh lễ (DS 1749)

“Cho dù thánh lễ chứa đựng nhiều giáo huấn quan trọng đối với dân chúng, các giáo phụ không cho rằng cần thiết phải dâng thánh lễ theo ngôn ngữ địa phương. Vì thế, mọi nhà thờ phải giữ thói quen cũ đã được Hội Thánh Rôma, là Mẹ và là Thầy của mọi giáo hội, thực hành và chấp thuận. Để các con chiên của Đức Kitô khỏi phải đói khát và “các em bé cầu xin bánh mà không ai đoái hoài ban cho” (Thren 4,4), thánh Công Đồng ra lệnh cho các mục tử phải thường xuyên tự mình hay nhờ người đại diện giải thích các bản văn thánh lễ và trình bày các mầu nhiệm của bí tích cực thánh này, nhất là trong ngày Chúa Nhật và các đại lễ” (DS 1749).

- Chương 9 : Dẫn nhập cho các điều luật sau. (DS 1750)

“Trong thời gian này, có nhiều sai lạc và nhiều kẻ dây dỗ và bảo vệ những luận thuyết chống lại giáo thuyết được đặt nền tảng trên Thánh Kinh, Thánh Truyền và giáo huấn của các giáo phụ ; thánh Công Đồng, sau khi đã thảo luận các tài liệu và với sự nhất trí của các nghị phụ, quyết định kết án và dứt phép thông công khỏi Hội Thánh tất cả những gì nghịch lại sự tinh tuyền và thánh thiện của giáo lý Hội Thánh, bằng những điều luật như sau” (DS 1750)

Tiếp theo là 9 điều luật về hy tế Thánh Lễ. (DS 1751-1759)

Điều 1 : “Kẻ nào nói rằng Thiên Chúa không được dâng tiến một hy lễ thực sự theo nghĩa đặc biệt, hoặc việc tiến dâng không có nghĩa nào khác ngoài việc Đức Kitô được ban cho chúng ta làm của ăn, kẻ đó phải bị loại” (DS 1751)

Điều 2 : “Kẻ nào nói rằng bằng những lời “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, Đức Kitô đã không phong chức linh mục cho các tông đồ, hoặc Người đã không ra lệnh cho các ngài và các linh mục khác phải dâng tiến Mình và Máu của Người, kẻ đó phải bị loại” (DS 1752)

Điều 3 : “Kẻ nào nói rằng hy lễ Misa chỉ cốt ở việc ngợi khen cảm tạ hay việc tưởng niệm hy tế thập giá chứ không phải là một hy lễ đền tạ, hoặc hy lễ Misa chỉ lợi ích cho người rước lễ, và người ta không được dâng tiến để cầu cho kẻ sống và kẻ chết và để đền tạ tội lỗi, hình phạt, phần bồi hoàn và các nhu cầu khác, kẻ đó phải bị loại” (DS 1753)

Điều 4 : “Kẻ nào nói rằng bằng hy lễ Misa người ta xúc phạm đến hy lễ cực thánh Đức Kitô đã hoàn tất trên thập giá, hoặc giảm hạ hy lễ đó, kẻ đó phải bị loại”. (DS 1754)

Điều 5 : “Kẻ nào nói rằng cử hành Thánh Lễ mừng kính các thánh hay để được các ngài nguyện giúp nơi Thiên Chúa, theo ý chỉ của Giáo Hội, là một việc lừa đảo, kẻ ấy phải bị loại”. (DS 1755)

Điều 6 : “Kẻ nào nói rằng Lễ quy hàm chưa một số sai lầm, do đó phải hủy bỏ, kẻ ấy phải bị loại”. (DS 1756)

Điều 7 : “Kẻ nào nói rằng các lễ nghi, lễ phục và biểu tượng bên ngoài mà Giáo Hội Công Giáo dùng trong khi cử hành Thánh Lễ là những điều kích thích lòng vô đạo hơn là phục vụ lòng mộ đạo, kẻ đó phải bị loại”. (DS 1757)

Điều 8 : “Kẻ nào nói rằng các thánh lễ mà chỉ có một mình linh mục rước lễ đều là bất hợp pháp, do đó, phải bị hủy bỏ, kẻ đó phải bị loại”. (DS 1758)

Điều 9 : “Kẻ nào nói rằng phải kết án nghi thức của Giáo Hội Rôma, theo đó phải đọc thầm một phần của Lễ quy và các lời truyền phép, hoặc nói rằng phải cử hành Thánh Lễ bằng ngôn ngữ địa phương mà thôi, hay không được pha nước vào rượu khi dâng chén thánh, bởi lẽ việc này đi ngược lại điều Đức Kitô đã quy định, kẻ đó phải bị loại” (DS 1759).

4.     Phiên họp XXIII

Cuối cùng, vì phong trào Cải Cách đề cao chức tư tế cộng đồng đối chọi với chức tư tế thừa tác, cho nên trong phiên họp XXIII, Công đồng bàn về Bí tích Truyền chức thánh và buộc phải nhấn mạnh chức tư tế thừa tác do Đức Kitô thiết lập trong vai trò dâng hy tế Thánh Lễ nhân danh Chúa Kitô. Tuy nhiên, phản ứng này của Công đồng đã làm giảm nhẹ vai trò tham dự tích cực của các tín hữu : họ chỉ được coi như là những người hưởng nhờ bí tích, họ chỉ tham dự với tư cách là những người “nghe Lễ”.

(Xem tiếp P2: Công đồng Vaticano II)

 


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com