V. CÔNG ĐỒNG VATICANO II
Như chúng ta vừa nói, Công đồng Triđentinô (13.12.1545 - 4.12.1563) đã dành ba phiên họp XIII, XXI và XXII để trình bày giáo lý công giáo về Bí tích Thánh Thể trong bối cảnh chống lại Phong trào Cải cách.
Công đồng Vaticanô II là một Công đồng mục vụ, khai mạc ngày 11.10.1962 và bế mạc ngày 8.12.1965 với 4 khoá họp :
- Khoá họp thứ nhất (11.10.1962 – 8.12.1962)
- Khoá họp thứ hai (29.9.1963 – 4.12.1963)
- Khoá họp thứ ba (14.9.1964 – 21.11-1964)
- Khoá họp thứ tư (14.9.1965 – 8.12.1965)
Ngày 4.12.1963, ngày bế mạc long trọng khoá họp thứ hai, Đức Giáo hoàng Phaolô VI công bố Hiến chế Phụng vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium). Ngày 25.1.1964, Đức Phaolô VI ban Tự sắc Sacram Liturgiam công bố Hiến chế Phụng vụ Thánh bắt đầu có hiệu lực và thành lập một Hội Đồng để thực thi Hiến chế này.
Hiến chế về Phụng Vụ Thánh đã thổi một luồng gió canh tân vào Giáo Hội. Công cuộc canh tân được đón nhận cách mau lẹ, nhất là trên bình diện Phụng vụ. Hoa quả dễ thấy nhất của cuộc canh tân do Công đồng Vaticanô II thực hiện là việc Đức giáo hoàng Phaolô VI công bố Sách Lễ Rôma năm 1970 và tiếp theo là các sách Nghi thức của từng Bí tích. Hiến chế về Phụng vụ thánh đã đưa ra nguyên tắc cho việc canh tân này như sau :
“Mẹ Hội Thánh tha thiết mong ước toàn thể tín hữu được hướng dẫn tham dự các cuộc cử hành Phụng vụ cách trọn vẹn, ý thức và linh động. Do chính bản tính Phụng vụ đòi hỏi việc tham dự như thế, lại nữa, nhờ Phép Rửa Tội, việc tham dự Phụng vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của dân Kitô giáo, là dòng giống được lựa chọn, là tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, là dân được tuyển chọn” (1P 2,9), (PV 24)
Từ nguyên tắc trên, Công Đồng đã đưa ra những chỉ thị về canh tân Phụng vụ như sau :
“Trong việc canh tân này, phải tu chính các bản văn và các nghi lễ, làm sao cho chúng diễn tả rõ ràng hơn những thực tại thánh mà chúng biểu thị, và để các tin hữu có thể dễ dàng thấu triệt các thực tại ấy càng nhiều càng tốt, cũng như có thể tham dự bằng việc cử hành những nghi lễ ấy cách trọn vẹn, linh động và cộng đồng”. (PV 21)
Như vậy, trong việc canh tân Phụng vụ, hai việc làm cụ thể mà Công đồng đòi hỏi là :
- Tu chính các bản văn ;
- và tu chính nghi lễ.
Để tu chính các bản văn, trước hết, Công đồng nói đến vai trò của Thánh Kinh trong Phụng vụ :
“Để xúc tiến việc canh tân, phát triển và thích ứng Phụng vụ, cần phải phát huy lòng mộ mến Thánh Kinh đậm đà và sống động, đã được truyền thống khả kính của các nghi lễ Đông phương và Tây phương minh chứng”. (PV 24) ;
“Trong các việc cử hành thánh, cần phải tu chính việc đọc Thánh Kinh cho dồi dào hơn, thay đổi hơn và thích hợp hơn” (PV 35).
Mục đích của việc canh tân Phụng vụ là giúp tín hữu “tham dự Phụng vụ một cách ý thức, linh động và hữu hiệu” (PV 11), do đó, Công đồng đã chấp thuận việc dùng tiếng bản quốc trong Phụng vụ (PV 36).
Còn đối với việc tu chính các nghi lễ, Công đồng đưa ra những tiêu chuẩn :
“Các nghi lễ phải chiếu toả nét đơn sơ cao quý, trong sáng, vắn gọn ; phải tránh những lập đi lập lại vô ích ; phải thích ứng với tầm lãnh hội của các tín hữu, cách chung không cần nhiều lời giải thích”. (PV 34)
Trên đây là những nét căn bản để canh tân Phụng vụ nói chung. Riêng đối với Thánh Lễ, Công đồng đưa ra những chỉ thị cho việc canh tân từ số 47-58 trong Hiến chế về Phụng vụ thánh, Chúng ta sẽ trình bày ở phần B.
Công đồng Vaticanô II không đưa ra một văn kiện riêng biệt nào về Bí tích Thánh Thể như Công Đồng Triđentinô. Tuy nhiên, Công Đồng đã đặc biệt nói về bí tích Thánh Thể trong Hiến chế về Phụng vụ Thánh và rất nhiều nơi trong các văn kiện khác.
Công đồng Vaticanô II bàn về Thánh Thể dưới nhiều góc cạnh khác nhau : thần học, phụng vụ, mục vụ và linh đạo.
A. THẦN HỌC VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Công Đồng Triđentinô đã tóm tắt nội dung của thần học về bí tích Thánh Thể vào 3 đề tài : Sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu, Thánh Thể được xét như là bí tích và Thánh Lễ là Hy tế. Về phương diện giáo lý, Công Đồng Vaticanô II cũng không đi ra ngoài lược đồ “kinh viện” này. Tuy nhiên, Vaticanô II đã ưu tiên suy nghĩ về mầu nhiệm Thánh Thể trong tương quan với Giáo Hội.
1. Hy tế Thánh lễ
Bản chất hy tế của Thánh Lễ được Công Đồng Triđentinô long trọng xác quyết, một lần nữa được tuyên xưng trong Công Đồng Vaticanô II, với những lời rất có ý nghĩa sau đây :
"Trong bữa tiệc sau hết, vào đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó, Hy Tế Thập Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quý của Người là Hội Thánh tưởng nhớ sự chết và phục sinh của Người : đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc Vượt Qua. Trong tiệc này, chúng ta nhận được Chúa Kitô làm của ăn, được tràn đầy ân sủng và được bảo đảm vinh quang tương lai". (PV 47)
Đây là đoạn văn quan trọng tóm tắt những nét chính thần học của Vaticanô II về Thánh Thể. Hy tế Thánh Lễ do chính Chúa Giêsu thiết lập, để nhờ đó Hy tế thập giá được hiện tại hoá qua các thời đại cho đến ngày tận thế. Bí tích Thánh Thể được Chúa trao lại cho Giáo Hội để tưởng nhớ mầu nhiệm Vượt qua của Người. Bí tích Thánh Thể là hồng ân tuyệt hảo nhất cho Giáo Hội, là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc vượt qua. Công đồng nhấn mạnh đến hiệu quả của việc lãnh nhận Mình Chúa như lương thực thiêng liêng, đem lại cho những ai lãnh nhận tràn đầy ân sủng và niềm hy vọng vinh quang.
Như vậy, theo Vaticanô II, mỗi khi cử hành bí tích Thánh Thể, Giáo Hội tưởng nhớ cuộc Vượt Qua của Đức Kitô ; lúc đó, cuộc Vượt Qua này trở nên hiện diện giữa cộng đoàn, vì lễ tế của Đức Kitô trên thập giá chỉ dâng một lần là đủ và luôn sống động để đem lại ơn cứu độ. “Mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, lúc đó Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta chịu hiến tế, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện” (GH 3).
Hy tế của Chúa Kitô và hy tế Thánh Lễ chỉ là một. Lễ vật duy nhất là Đức Kitô, xưa chính Người dâng trên thập giá, nay được dâng lên nhờ thừa tác vụ linh mục. Chỉ khác biệt ở cách dâng Công đồng đã nói đến điều này trong Sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục :
“Nhờ thừa tác vụ của các linh mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất vì kết hợp với hy tế của Đức Kitô, Đấng Trung Gian Duy Nhất. Nhân danh Hội Thánh, hy tế này nhờ tay các linh mục được hiến dâng một cách bí tích và không đổ máu, cho tới khi Chúa lại đến” (LM 2)
2. Sự hiện diện thực sự
Mầu nhiệm về sự hiện diện thực sự của Chúa dưới hình bánh và hình rượu, đã được xác nhận trong Công Đồng Vaticanô II với cùng một ý nghĩa và tư tưởng như đã được Công Đồng Triđentinô đặt thành tín điều.
Công đồng Vaticanô II đã nói đến các hình thức hiện diện của Chúa trong Giáo Hội : “Người hiện diện trong các Bí tích nhờ quyền năng của Người, vì thế ai rửa tội thì chính là Chúa Kitô rửa. Người hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Hội Thánh. Người hiện diện trong khi Hội Thánh cầu khẩn và hát Thánh vịnh, như chính Người đã hứa : “Ở đâu có hai, ba người nhân danh Thầy mà họp lại, Thầy sẽ ở giữa họ” (Mt 18,2), (PV 7), nhưng cách hiện diện siêu vượt hơn hết là hiện diện trong Bí tích Thánh Thể :
“Chúa Kitô hằng hiện diện trong Giáo Hội, nhất là trong các hoạt động phụng vụ. Người hiện diện trong Hy Lễ, không những trong con người thừa tác viên, vì “như xưa Người đã tự dâng mình trên thập giá, thì nay chính Người cũng dâng mình nhờ thừa tác vụ của các linh mục” mà nhất là hiện diện thực sự dưới hai hình Thánh Thể” (PV 7)
3. Thánh Thể và Giáo Hội
Công đồng Triđentinô, vì phải chống lại Cải Cách, nên đã dồn mọi nỗ lực vào việc chứng minh Thánh Lễ là một hy tế và mối liên hệ giữa hy tế thập giá và hy tế Thánh Lễ. Công đồng Vaticanô II ưu tiên nhấn mạnh đến chiều kích giáo hội của Thánh Thể. Thánh Thể là lương thực cho Giáo Hội lữ hành. Giáo Hội sống nhờ Thánh Thể. Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Giáo Hội. Thực vậy, Thánh Thể là “chóp đỉnh” của hành trình gia nhập Kitô giáo (initiation chrétienne) nhưng cũng là chóp đỉnh của hoạt động tông đồ, bởi vì hoạt động tông đồ giả thiết sự thuộc về Giáo Hội. Thánh Thể cũng là “nguồn mạch” của mọi sinh hoạt trong đời sống Giáo Hội, bởi vì Thánh Thể là lương thực cần thiết cho sự sống và sứ mạng của Giáo Hội (PV 10)
a. Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ hiệp nhất của Giáo Hội
Theo Vaticanô II, Thánh Thể cũng biểu lộ bản chất của Giáo Hội, một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, cả trên bình diện Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương:
“Trong phần đất mình, mỗi đoàn thể là dân tộc mới được Thiên Chúa kêu gọi trong Thánh Thần và trong sự viên mãn hoàn toàn (x. Tx 1,5). Nơi các đoàn thể đó, tín hữu được tụ họp lại nhờ sự rao giảng Phúc âm Chúa Kitô và mầu nhiệm Tiệc thánh Chúa được cử hành, để “nhờ Thịt và Máu Chúa, tất cả kết thành huynh đệ và thành một thân thể. Chúa Kitô vẫn hiện diện trong các cộng đoàn ấy, dù nhỏ bé nghèo hèn hay tản mác khắp nơi. Và nhờ Thần lực Người, Giáo Hội hiệp thành duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Bởi vì “việc tham dự vào Mình và Máu Chúa Kitô không có công hiệu nào khác hơn là biến đổi chúng ta thành Đấng mà chúng ta nhận lãnh” (Thánh Inhaxiô thành Antiokia, Smyrna 8,1) ; (GH 26, đ. 1)
Trong số này, Công Đồng trích dẫn lời của thánh Inhaxiô thành Antiokia về hiệu quả của việc lãnh nhận Thánh Thể là làm cho chúng ta được biến đổi theo hình ảnh của Đức Kitô.
Qua việc các tín hữu tham dự vào cùng một tấm bánh và một chén, Bí tích Thánh Thể biểu lộ sự hiệp nhất trong Giáo Hội :
“Khi tham dự Thánh Lễ, nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo, các tín hữu dâng lên Thiên Chúa Lễ vật thần linh và cùng với Lễ vật ấy, họ tự dâng chính mình họ. Khi dâng lễ cũng như khi hiệp lễ, không phải cách hỗn độn, nhưng mỗi người một cách góp phần vào việc cử hành Phụng vụ. Hơn nữa, được bổ dưỡng bởi Mình Thánh Chúa Kitô trong Thánh Lễ, họ biểu lộ cách cụ thể sự hiệp nhất của Dân Thiên Chúa, sự hiệp nhất ấy được diễn tả đầy đủ và thực hiện cách kỳ diệu trong bí tích cực trọng này”. (GH 11, đ. 1).
b. Thánh Thể là mối dây bác ái.
Hiệu quả đầu tiên của việc hiệp lễ là cho chúng ta được thông hiệp với Chúa Kitô, Đầu của Thân Thể Người là Giáo Hội. Như thế, thuộc về Chúa Kitô để thuộc về Giáo Hội. Trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta thực hành đức ái. Công đồng nói đến trách nhiệm hàng đầu của giám mục giáo phận là giúp cho các tín hữu của mình hiểu, sống và diễn tả mầu nhiệm Thánh Thể trong tình liên đới yêu thương :
“Vậy các ngài (giám mục) phải luôn luôn lo lắng cho các Kitô hữu thấu hiểu và sống sâu xa hơn mầu nhiệm phục sinh thế nào, để nhờ Bí tích Thánh Thể, họ tạo thành một thân thể liên kết rất chặt chẽ trong tình bác ái duy nhất của Chúa Kitô” (GM 15, đ. 2).
Giám mục giáo phận là dấu chỉ hiệp nhất của Giáo Hội địa phương, vì thế, việc ngài cử hành Thánh Thể cùng với cộng đoàn giáo hội địa phương biểu hiệu rõ nét đức ái và sự hiệp nhất của Giáo Hội :
“Mỗi lần giám mục cử hành tác vụ thánh với cộng đoàn tụ họp quanh bàn thờ, đó là biểu hiệu đức ái và sự hiệp nhất của nhiệm thể, và nếu thiếu sự hiệp nhất đó, không thể có ơn cứu rỗi” (GH 26).
“Các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, thông ban và nuôi dưỡng trong họ đức ái đối với Thiên Chúa và đối với loài người ; nhân đức này là linh hồn của mọi hoạt động tông đồ” (GH 33, đ. 2).
c. Thánh Thể đưa người tín hữu vào trong sự hiệp thông với Đức Ki-tô và Thân thể của Người là Giáo Hội.
Bí tích Thánh Thể đưa chúng ta vào trong tương quan hiệp thông với Đức Kitô, nhưng dấu chỉ hữu hình của mối tương quan này được biểu lộ qua sự hiệp thông giáo hội. Lãnh nhận Thân Mình Chúa Kitô (Corps sacramentel du Christ) để trở nên chi thể của thân mình giáo hội của Người (Corps ecclesial du Christ) :
“Khi bẻ bánh tạ ơn, chúng ta thực sự thông dự vào Thân thể của Chúa, nên chúng ta được nâng lên để hiệp thông với Người và với nhau. “Chúng ta tuy nhiều, nhưng là một tấm bánh, một thân thể, vì hết thảy chúng ta cùng thông phần vào một tấm bánh” (1Cr 10,17). Thế nên, tất cả chúng ta trở thành chi thể của Thân thể ấy (x. 1Cr 12,27), “vì mỗi người là chi thể của nhau” (Rm 12,5) ; (GH 7, đ. 2)
d. Bí tích Thánh Thể xây dựng Giáo Hội
“Phụng vụ, nhất là Lễ Tạ ơn, như là nguồn mạch từ đó ân sủng tuôn tràn trong chúng ta và làm cho con người được thánh hoá trong Chúa Kitô một cách vô cùng hữu hiệu, đồng thời Thiên Chúa được tôn vinh : đây cũng là cứu cánh của mọi công việc khác của Giáo Hội” (PV 10, đ. 2).
Công Đồng xác tín rằng Bí tích Thánh Thể và lòng yêu mến Lời Chúa chính là sự sống của Giáo Hội và cho Giáo Hội. Giáo Hội được tăng triển là nhờ vào việc lãnh nhận Thánh Thể và đời sống thiêng liêng được đổi mới là nhờ vào lòng yêu mến Lời Chúa :
“Nếu đời sống Giáo Hội được tăng triển nhờ năng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể thế nào, thì đời sống thiêng liêng cũng hy vọng có thể được đổi mới như vậy nhờ thêm lòng sùng kính Lời Chúa, là “Lời hằng tồn tại muôn đời” (Is 40,8 ; 1P 1,23-25 ; MK 26).
e. Thánh Thể thúc bách Giáo Hội loan báo Tin Mừng
Trong số 17 của Hiến chế tín lý về Giáo Hội, Công Đồng nhấn mạnh đến trách nhiệm của toàn thể Dân Chúa là góp phần loan báo Tin Mừng, nhưng chỉ các tư tế mới hoàn tất việc xây dựng Nhiệm Thể Giáo Hội nhờ Thánh Thể, bởi vì Thánh Thể hoàn tất hành trình gia nhập Kitô giáo
“Tuy bất cứ ai cũng có thể ban Phép Rửa cho những kẻ tin, nhưng chỉ có linh mục mới hoàn tất xây dựng Nhiệm Thể bằng Hy lễ tạ ơn, làm trọn lời Thiên Chúa đã phán qua miệng tiên tri : “Từ đông sang tây, Danh Ta sẽ được lừng lẫy khắp muôn dân ; khắp nơi đều sát tế và dâng lễ vật thanh sạch kính Danh Ta” (Ml 1,11 ; GH 17).
“Các công lao khó nhọc trong việc tông đồ, đều nhằm làm cho mọi người trở nên con cái Thiên Chúa nhờ đức tin và Phép Rửa, cùng nhau quy tụ ngợi khen Chúa giữa lòng Giáo Hội, thông phần hiến tế và ăn tiệc của Chúa” (PV 10, đ. 1).
“Tất cả những bí tích khác cũng như các thừa tác vụ trong Giáo Hội và các hoạt động tông đồ đều gắn liền với bí tích Thánh Thể và qui hướng về đó. Thật vậy, Phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội, đó là chính Chúa Kitô, Người là mầu nhiệm Phục Sinh của chúng ta, Người là Bánh hằng sống, ban sự sống cho nhân loại bằng chính Thịt của Người, thịt đã được sống động nhờ Thánh Thần và làm cho người ta được sống. Như thế, Người mời gọi và dẫn đưa con người hiến dâng chính mình, dâng những vất vả của mình và mọi tạo vật làm một với Người. Bởi vậy, bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và tuyệt đỉnh của toàn thể công việc rao giảng Tin Mừng : trong khi các người dự tòng được dẫn đưa dần dần đến việc tham dự bí tích Thánh Thể, thì các tin hữu, những người đã mang ấn tích Rửa tội và Thêm sức, sẽ được kết hiệp trọn vẹn với Thân thể Chúa Kitô, nhờ bí tích Thánh Thể”. (LM 5, đ. 2).
“Nhờ lời rao giảng và cử hành các bí tích, mà trung tâm và tuyệt đỉnh là Bí tích Thánh Thể, hoạt động truyền giáo làm cho Chúa Kitô, Đấng tác thành công trình cứu rỗi được hiện diện”. (TG 9, đ. 2).
f. Thánh Thể là lương thực cho Giáo Hội lữ hành
“Chính vì vậy mà Chúa đã sai các môn đệ đi khắp thế gian rao giảng Phúc âm, để khi con người đã được tái sinh do Lời Thiên Chúa, được gia nhập Giáo Hội nhờ Phép Rửa, một Giáo Hội với tư cách là thân thể của Ngôi Lời nhập thể được nuôi dưỡng và sống động bằng Lời Chúa và bánh Thánh Thể” (TG 6, đ. 3).
g. Bí tích Thánh Thể hướng tới đại kết
Công đồng Vaticanô II mời gọi các tín hữu công giáo hãy nhìn vào truyền thống Đông phương, một truyền thống rất mộ mến Thánh Thể :
“Mọi người đều thấy hiển nhiên là các tín hữu Đông phương rất mộ mến cử hành Phụng vụ thánh, nhất là việc cử hành Bí tích Thánh Thể, nguồn sống của Giáo Hội và đảm bảo vinh quang đời sau, nhờ đó, các tín hữu hiệp nhất với giám mục được đến gần Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con Ngôi Lời nhập thể đã chịu đau khổ và được hiển vinh, trong ân sủng tràn đầy của Chúa Thánh Thần, họ được cùng thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi rất thánh và ‘thông phần bản tính Thiên Chúa’ (2P 1,4). Vì vậy, nhờ việc cử hành Thánh Thể trong từng Giáo Hội ấy, Giáo Hội Thiên Chúa được xây dựng và phát triển, và sự hiệp thông giữa các Giáo Hội ấy tỏ rõ qua việc đồng tế” (HN 15, đ. 1).
Đối với các cộng đoàn giáo hội thuộc phong trào Cải Cách, Vaticanô II vẫn có cái nhìn tích cực về việc các cộng đoàn này tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa trong Tiệc thánh và ước mong Thánh Thể sẽ là đối tượng cho cuộc đối thoại đại kết :
“Những cộng đoàn Giáo Hội ly khai với chúng ta, mặc dù không hiệp nhất đầy đủ với chúng ta như Phép Rửa tội đòi hỏi, và mặc dù chúng ta tin họ không còn giữ được bản chất đích thực và nguyên vẹn của Mầu nhiệm Thánh Thể, chủ yếu là vì thiếu Bí tích Truyền chức thánh, nhưng khi tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa trong Tiệc Thánh, họ đã tuyên xưng rằng sự sống chỉ có nghĩa nhờ hiệp thông với Chúa Kitô và họ mong đợi ngày trở lại vinh quang của Người. Do đó, phải dùng giáo lý về Tiệc thánh của Chúa, về các Bí tích khác, về việc phượng tự cũng như về các chức vụ của Giáo Hội làm đối tượng cho cuộc đối thoại”. (HN 22).
4. Chiều kích cánh chung của Thánh Thể
Trong một kinh nguyện cổ, Giáo Hội ca tụng mầu nhiệm Thánh Thể như sau : “Ôi Tiệc Thánh, Đức Kitô đã trở thành lương thực cho chúng ta ; tiệc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Người, ban cho ta hồng ân viên mãn và bảo chứng cho vinh quang mai sau”.
Trong bữa Tiệc ly, Chúa hướng các môn đệ đến tiệc Vượt Qua viên mãn trong Nước Trời : “Thầy bảo cho anh em biết : từ nay, Thầy sẽ không còn uống rượu nho này nữa, cho đến ngày được cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy”. (x. Mt 26,29 ; Lc 22,18 ; Mc 14,25). Mỗi lần cử hành bí tích Thánh Thể, Giáo Hội nhớ lại lời hứa này và hướng về Đấng đang đến. Trong kinh nguyện, Giáo Hội kêu cầu Người mau đến : “Maranatha” (1Cr 16,22), “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến” (Kh 22,20), “Ước gì trần gian này mau qua đi và ân sủng Ngài đến” (x. Didachè 10,6).
Bí tích Thánh Thể là bảo chứng chắc chắn và là dấu chỉ tỏ tường về niềm hy vọng một Trời Mới Đất Mới, nơi đó công lý ngự trị (x. 2Pr 3,13). Mỗi khi cử hành mầu nhiệm này, “công trình cứu độ chúng ta sẽ được thực hiện” (GH 3).
Trong Hiến chế mục vụ Vui mừng và Hy vọng, Công đồng đã nói đến chiều kích cánh chung của Bí tích Thánh Thể : bảo chứng cho niềm hy vọng, lương thực đi đường, bữa tiệc tiền dự vào Nước Trời :
“Chúa đã để lại cho những kẻ thuộc về Người bảo chứng niềm hy vọng và lương thực đi đường trong bí tích đức tin ; trong bí tích ấy, những yếu tố thế trần, kết quả của lao công con người được biến thành Mình và Máu vinh hiển, nên bữa ăn hiệp thông huynh đệ và nếm hưởng trước bữa tiệc trên trời” (MV 38, đ. 2).
Bí tích Thánh Thể vừa là lương thực cho đời sống đức tin và đức ái của người tín hữu, vừa là bảo chứng cho niềm hy vọng được thông phần vào sự phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô :
“Người còn lấy chính Mình Máu Người nuôi họ, cho họ tham dự vào cuộc sống vinh hiển của Người”. (GH 48).
Bí tích Thánh Thể còn đưa ta vào hiệp thông với Giáo Hội các thánh trên trời :
“Khi cử hành Hy tế tạ ơn, chúng ta kết hợp rất mật thiết với việc thờ phượng của Giáo Hội trên trời, vì hiệp cùng Giáo Hội, chúng ta kính nhớ trước hết Đức Maria vinh hiển, trọn đời đồng trinh, sau là thánh Giuse, các thánh tông đồ và tử đạo cùng toàn thể các thánh” (x. Sách Lễ Rôma, Lễ Quy)” (GH 50, đ. 4).
B. PHỤNG VỤ
Phong trào canh tân Phụng vụ ao ước người tín hữu tham dự tích cực vào đời sống phượng tự của Giáo Hội. Phong trào này là nguồn cảm hứng cho công cuộc canh tân Phụng vụ của Vaticanô II. Cử hành Thánh Thể như thế nào để sinh ích lợi cho tín hữu đó là mối bận tâm căn bản của Vaticanô II. Cụ thể là phải duyệt lại Nghi thức Thánh Lễ :
“Vì vậy, để Hy tế Thánh Lễ, ngay cả nghi thức bên ngoài thu đạt được hiệu năng mục vụ trọn vẹn, Thánh Công Đồng quyết định những điều sau đây về Thánh Lễ cử hành có dân chúng tham dự, nhất là vào những ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc”. (PV 49) :
1) Phải canh tân Nghi thức Thánh Lễ để biểu lộ rõ ràng hơn ý nghĩa riêng biệt của các phần cũng như mối tương quan của chúng, đồng thời để việc tham dự của tín hữu tích cực hơn (PV 50) ;
2) Để bàn tiệc Lời Chúa được phong phú hơn cho các tín hữu, phải mở rộng kho tàng Thánh Kinh hơn, để trong một số năm ấn định đọc cho dân chúng nghe phần quan trọng của Thánh Kinh (PV 51) ;
3) Bài giảng được coi như thành phần của chính Phụng vụ. Phải giảng trong các ngày Chúa nhật và lễ buộc có dân chúng tham dự (PV 52) ;
4) Phải tái lập “Lời nguyện chung” hay “Lời nguyện tín hữu” nhất là vào những ngày Chúa nhật và lễ buộc (PV 53)
5) Tiếng bản xứ được phép dùng trong những Thánh Lễ cử hành có đông giáo dân tham dự (PV 54) ;
6) Rất đáng khuyến khích các tín hữu tham dự Thánh Lễ hoàn hảo hơn, bằng cách, sau khi linh mục rước lễ, họ cũng lãnh nhận Mình Chúa trong cùng một Hy lễ đó
Dù vẫn duy trì các nguyên tắc tin lý do Công đồng Triđentinô quy định, nhưng có thể cho rước lễ dưới hai hình (PV 55) ;
7) Thánh lễ gồm hai phần : Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh thể, được liên kết chặt chẽ đến nỗi chỉ tạo thành "một hành vi phụng thờ duy nhất". Do đó, Công đồng khuyến dụ các chủ chăn, trong khi dậy giáo lý, phải nhiệt thành dậy dỗ các tín hữu biết tham dự trọn vẹn Thánh Lễ, nhất là vào những ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc (PV 56).
Để hiểu được tầm quan trọng lớn lao của những quyết định trên đây liên quan đến việc cử hành Thánh Lễ, chúng ta nên đối chiếu những quyết định của Công đồng Vaticanô II với những quyết định của Công đồng Triđentinô.
Vào thời buổi khó khăn, khi đức tin công giáo về bản chất hy lễ của Thánh Lễ, về chức tư tế thừa tác, về sự hiện diện thực sự và liên tục của Đức Kitô dưới hình bánh và hình rượu gặp nguy hiểm, thì mối bận tâm đầu tiên của thánh Piô V, vị giáo hoàng công bố Sách Lễ Rôma năm 1570 là lo bảo tồn truyền thống còn mới, đang bị tấn công nhiều mặt, bằng cách thay đổi rất ít trong nghi thức thánh.
Công Đồng Triđentinô đã nhận thấy ích lợi huấn giáo lớn lao trong việc cử hành Thánh Lễ, nhưng chưa rút ra được từ đó tất cả các hiệu quả thực tiễn. Thật vậy, có nhiều người đã xin Công Đồng cho phép dùng tiếng bản xứ khi cử hành Thánh Lễ. Nhưng trước lời thỉnh cầu này, Công Đồng đã xét tới hoàn cảnh đáng lưu tâm lúc đó, mà nghĩ rằng : nhiệm vụ của Công Đồng là nhấn mạnh một lần nữa đến giáo lý truyền thống của Hội Thánh : hy lễ Thánh Thể, trước hết, là hành động của chính Chúa Kitô, cho nên hiệu năng riêng của Thánh Lễ không bị ảnh hưởng do cung cách tham dự của tín hữu. Bởi đó, Công Đồng đã dùng những lời vừa mạnh mẽ vừa đắn đo như sau : “Mặc dầu Thánh Lễ có hàm chứa một nền giáo huấn phong phú cho giáo dân, nhưng các nghị phụ nhận thấy là cử hành Thánh Lễ khắp nơi bằng tiếng bản xứ, thì không có lợi”.
Công Đồng đã lên án kẻ nào chủ trương rằng : “Phải lên án nghi lễ Hội Thánh Rôma dạy đọc nhỏ tiếng phần Lễ Quy và lời truyền phép ; hoặc, phải cử hành Thánh Lễ bằng tiếng bản xứ mà thôi” (Ibidem, ch. 9 : DS 1759).
Tuy nhiên, một đàng Công Đồng cấm dùng tiếng bản xứ trong Thánh Lễ, một đàng lại truyền cho các mục tử phải dùng lời giáo huấn thích hợp để thay thế : “Để đoàn chiên Đức Kitô khỏi phải đói khát”. Công đồng truyền cho các mục tử và hết mọi người có trách nhiệm coi sóc các linh hồn phải hoặc tự mình, hoặc nhờ người khác, năng trình bày khi cử hành Thánh Lễ một vài điều trong những điều đọc trong Thánh Lễ, và trong số các mầu nhiệm, phải diễn giảng một vài điều về mầu nhiệm hy lễ rất thánh này, nhất là trong các Chúa Nhật và lễ trọng”. (Ibidem, ch. 8 : DS 1749).
Trong khi đó, Công Đồng Vaticanô II được triệu tập để làm cho Giáo Hội thích nghi với các nhu cầu của nhiệm vụ tông đồ trong thời đại này, do đó Công Đồng nhìn nhận rằng : “Nhiều khi việc dùng tiếng bản xứ có thể rất hữu ích cho dân chúng”, và đã cho phép dùng tiếng bản xứ (PV 36).
Quyết định trên đây đã được khắp nơi nồng nhiệt đón nhận, vì nhờ đó, mầu nhiệm Thánh Lễ được am hiểu đầy đủ hơn.
Công Đồng Vaticanô II còn nhắn nhủ các chủ chăn phải diễn giảng trong các ngày Chúa Nhật và lễ trọng, và được phép xen ít lời nhắc bảo vào giữa các nghi lễ thánh.
Cũng với một tinh thần và nhiệt tâm mục vụ đó, Công Đồng Vaticanô II đã có một lý do mới, để có thể cân nhắc quyết định của Công Đồng Triđentinô về việc rước lễ dưới hai hình. Thật vậy, ngày nay, không còn ai nghi ngờ những nguyên tắc giáo lý về hiệu lực rất đầy đủ của việc rước lễ dưới một hình bánh, nên Công Đồng đã đôi khi cho phép được rước lễ dưới hai hình, nghĩa là nhờ một hình thức biểu lộ dấu bí tích rõ ràng hơn, giáo dân có cơ hội đặc biệt để hiểu sâu hơn mầu nhiệm họ tham dự.
C. MỤC VỤ
Vì là một Công đồng mục vụ, cho nên khi bàn về Bí tích Thánh Thể, Vaticanô II không dừng lại ở bình diện giáo lý, nhưng nhấn mạnh đến chiều kích hiện sinh nghĩa là cần thiết phải có một sự găp gỡ giữa người lãnh nhận với Đấng được lãnh nhận. Từ đó, ta thấy các Bí tích không chỉ là những phương tiện khách quan để múc lấy ân sủng, nhưng là hành động cứu độ của Đức Kitô trong từng cá nhân và trong Hội Thánh.
1. Chiều kích cộng đoàn của việc cử hành Thánh Thể
Cùng với chức tư tế thừa tác, Công đồng cũng đưa ra ánh sáng một thực tại quan trọng khác, đó là chức tư tế vương giả của giáo dân. Chức tư tế cộng đồng này đã bị lu mờ vào thời Công đồng Triđentinô, vì lý do “chống Cải cách”.
Quan điểm Giáo hội học của Công đồng Vaticanô II khởi đi từ dân Thiên Chúa. Giáo Hội là dân Thiên Chúa, dân được chuộc về bằng giá máu Đức Kitô, được Chúa quy tụ, được Lời Người nuôi dưỡng ; là dân được kêu gọi để dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của toàn thể gia đình nhân loại, là dân hiến dâng hy lễ của Đức Kitô, để trong Người mà tạ ơn về mầu nhiệm cứu độ ; và sau hết, là dân liên kết với nhau nên một, nhờ thông phần Mình và Máu Đức Kitô. Dân này, mặc dầu từ nguồn gốc đã là thánh, nhưng nhờ sự thông phần một cách có ý thức, linh động và hữu hiệu vào mầu nhiệm Thánh Thể, sẽ không ngừng tiến triển trên con đường thánh thiện.
Vaticanô II khẳng định rõ ràng chỉ có một chức tư tế duy nhất, chức tư tế của Đức Kitô. Tất cả dân Thiên Chúa đều tham dự vào chức tư tế này nhờ việc xức dầu trong Bí tích Thánh Tẩy. Một đàng, Công đồng Vaticanô II phân biệt rõ ràng “chức tư tế chung của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật” vốn “khác nhau không chỉ về cấp bậc, mà còn về bản chất, đàng khác nói lên sự bổ túc cho nhau, bởi vì cả hai đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô, theo cách thức riêng của mình” (GH 10).
Từ cái nhìn giáo hội học này, Công đồng Vaticanô II nói rằng việc cử hành Thánh Lễ là việc của toàn thể Hội Thánh, trong đó mỗi người chỉ làm và làm trọn công việc thuộc về mình, tùy theo cấp bậc của mình trong dân Thiên Chúa
2. Việc tham dự tích cực, linh động và ý thức của dân Chúa.
Hiến chế Phụng vụ đã nói lên thao thức của Giáo Hội là mong ước các tín hữu đến với Bí tích Thánh Thể bằng một đức tin sâu xa, một tấm lòng yêu mến, biết ơn và dâng hiến :
“Giáo Hội hằng bận tâm lo cho các kitô hữu đừng tham dự vào mầu nhiệm đức tin ấy (Thánh Lễ) như những khách bàng quang, câm lặng, nhưng nhờ hiểu thấu đáo mầu nhiệm ấy qua nghi lễ và kinh nguyện sao cho họ tham dự hoạt động thánh cách ý thức, thành kính và linh động, cho họ được đào luyện bởi Lời Chúa, được bổ sức nơi bàn tiệc Mình Chúa, biết tạ ơn Chúa ; trong khi dâng lễ vật tinh tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục mà còn liên kết với ngài, họ tập dâng chính mình ; và ngày qua ngày, nhờ Chúa Kitô, Đấng Trung gian, họ được tiêu hao trong tình kết liên với Thiên Chúa và với nhau, để cuối cùng Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người” (PV 48).
Khi nhấn mạnh tới điều này, Công đồng Vaticanô đã trở về với truyền thống của các giáo phụ, đặc biệt là với một số bản văn của thánh Augustinô, luôn coi Bí tích Thánh Thể là Hy tế của “Đức Kitô toàn thể” (Le Christ total) gồm Chúa Kitô là Đầu và Giáo Hội là Thân Thể của Người :
“Nhờ thừa tác vụ của các linh mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất vì kết hiệp với Hy tế của Chúa Kitô, Đấng Trung gian duy nhất ; hy tế này nhờ tay các linh mục, nhân danh Giáo Hội, hiến dâng một cách bí tích và không đổ máu trong bí tích Thánh Thể, cho tới khi Chúa lại đến. Chính việc tế lễ này là điểm nhắm tới và hoàn tất của tác vụ linh mục. Thật vậy, việc thi hành tác vụ của các ngài bắt đầu bằng việc rao giảng Phúc âm, múc lấy sức mạnh và năng lực từ Hy tế của Đức Kitô và kết thúc bằng việc “hiến dâng lên Thiên Chúa toàn thể thành đô được cứu rỗi, đó là cộng đoàn và xã hội các Thánh, như một lễ vật của toàn dân, nhờ vị Linh mục thượng phẩm, cũng là Đấng tự hiến trong cuộc Tử nạn vì chúng ta, để chúng ta trở nên Thân Thể của Người là Đầu vô cùng cao cả” (LM 2, đ. 4)
D. LINH ĐẠO THÁNH THỂ
Nét đặc sắc của Công đồng Vaticanô II khi bàn về Thánh Thể là muốn gửi đến mọi thành phần dân Chúa “một linh đạo thánh thể” phù hợp với từng cách sống.
1. Thánh Thể là nền tảng và trung tâm của mọi cộng đoàn Ki-tô hữu
“Không một cộng đoàn kitô hữu nào được thiết lập mà không đặt nền tảng và trọng tâm vào việc cử hành Bí tích Thánh Thể ; cho nên mọi nền giáo dục về tinh thần cộng đoàn phải được bắt đầu từ đó” (LM 6, đ. 5).
“Trong khi hoàn thành công việc thánh hoá, các linh mục quản xứ hãy lo lắng để việc cử hành Hy Tế Thánh Thể phải là trọng tâm và tuyệt đỉnh của toàn thể đời sống cộng đoàn Kitô giáo” (GM 30, đ. 6).
“Nhờ Hiến Tế Thánh Thể, các cộng đoàn tín hữu luôn được cùng Chúa Kitô hướng tới Chúa Cha” (TG 15, đ. 2).
“Việc lập lại giao ước của Chúa với con người trong Lễ Tạ ơn nung nấu và lôi cuốn các tín hữu vào trong tình yêu nồng nàn của Chúa Kitô” (PV 10, đ. 2).
“Vì thế, tiệc Thánh Thể là trung tâm tụ họp các tín hữu mà linh mục là người chủ sự”. (LM 5, đ. 3).
2. Thánh Thể là hướng đi của việc huấn luyện chủng sinh
“Các chủng sinh phải được chuẩn bị chu toàn tác vụ phụng vụ và thánh hoá, để thi hành công cuộc cứu rỗi qua Hy tế Thánh Thể và các Bí tích, bằng lời cầu nguyện và nghiêm chỉnh cử hành các nghi lễ phụng vụ” (ĐT 4).
“Phải dậy các chủng sinh biết tìm gặp Chúa Kitô trong việc trung thành suy gẫm Lời Chúa, trong việc thông hiệp tích cực các Mầu nhiệm chí thánh của Giáo Hội, nhất là Bí tích Thánh Thể và kinh nguyện thần vụ” (ĐT 8)
3. Thánh Thể là lương thực nuôi dưỡng đời sống tu đức, dòng tu
“Phải theo tinh thần của Giáo Hội, để đem hết tâm hồn, miệng lưỡi chu toàn các lễ nghi Phụng vụ, nhất là mầu nhiệm Thánh Thể, lại phải nuôi dưỡng đời sống tu đức bằng nguồn mạch phong phú ấy” (DT 6, đ. 2).
Nét đặc biệt làm nên đời sống tu trì, đó là đời sống cộng đoàn. Vaticanô II xác tín rằng chính Thánh Thể nuôi dưỡng đời sống huynh đệ cộng đoàn :
“Đời sống chung được nuôi dưỡng bằng giáo lý Phúc âm, Phụng vụ thánh và nhất là bí tích Thánh Thể phải được duy trì trong lời cầu nguyện, trong sự hiệp thông cùng một tinh thần (x. Cv 2,42) theo gương Giáo Hội sơ khai” (DT 15).
Tông huấn Đời sống thánh hiến, ban hành ngày 25.3.1996, dưới ánh sáng Công Đồng, một lần nữa đã nói đến Thánh Thể ở trung tâm đời sống thánh hiến, cá nhân cũng như công đoàn như sau :
“Để thực sự duy trì mối hiệp thông với Chúa, Phụng vụ thánh hẳn là một phương tiện nền tảng, đặc biệt là việc cử hành Thánh Thể và phụng vụ các giờ kinh. “Trước hết Thánh Thể hàm chứa toàn thể những ơn ích thiêng liêng của Hội Thánh, đó chính là Chúa Kitô. Người là lễ Vượt Qua của chúng ta, là Bánh hằng sống, ban sự sống cho nhân loại bằng thịt của Người, Thịt đã được tái sinh và có sức tái sinh nhờ Thánh Thần”(LM 5, đ. 2). Thánh Thể là tâm điểm của đời sống Hội Thánh và cũng là tâm điểm của đời sống thánh hiến. Khi tuyên khấn những lời khuyên Phúc âm, làm sao một người đã được kêu mời chọn Chúa Kitô như Đấng duy nhất đem lại ý nghĩa cho đời mình, lại có thể không ao ước được hiệp thông với Người ngày càng sâu xa hơn, nhờ tham dự mỗi ngày vào Bí tích làm cho Người hiện diện, vào hy lễ và thể hiện tình yêu dâng hiến của Người trên đồi Golgotha, vào bữa tiệc nuôi dưỡng và nâng đỡ dân Chúa trong cuộc lữ hành ?
Do tự bản chất, Thánh Thể ở trung tâm đời sống thánh hiến, của cá nhân và công đoàn. Đó là của ăn đường mỗi ngày và nguồn mạch linh đạo cho các cá nhân và các Hội dòng. Trong Thánh Thể, mọi người được thánh hiến được mời gọi sống mầu nhhiệm Vượt qua của Chúa Kitô, khi hiệp nhất với Người trong việc Người hiến dâng mạng sống mình lên cho Chúa Cha nhờ Thánh Thần. Tôn thờ Chúa Kitô hiện diện trong Thánh Thể cách chuyên cần và lâu giờ sẽ cho chúng ta được sống một phần nào kinh nghiệm của thánh Phêrô trong dịp Chúa hiển dung : “Chúng con ở đây thật là hay”. Và trong khi cử hành mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa, sự hiệp nhất và bác ái của những người đã thánh hiến cho Chúa cuộc đời mình sẽ được củng cố và phát triển” (số 95).
4. Thánh Thể là trung tâm và là cội rễ của toàn bộ đời sống Linh mục
“Thật vậy, đức bác ái mục tử trước hết phát xuất từ Hy Tế Thánh Thể ; do đó, Hy tế Thánh Thể là trung tâm và là cội rễ của toàn thể đời sống linh mục ; cho nên linh mục phải cố gắng sống thực trong tâm hồn điều mình đã làm trên bàn tế lễ” (LM 14, đ. 2).
Công đồng khuyến khích các linh mục dâng Thánh Lễ hàng ngày, bởi vì các linh mục là cộng sự viên của ơn cứu độ :
“Công việc cứu chuộc chúng ta được liên tục thực hiện trong mầu nhiệm Hy tế Thánh Thể, trong đó các linh mục chu toàn chức vụ trọng yếu nhất của mình ; do đó, hết sức khuyến khích việc cử hành Thánh Lễ hằng ngày, dù các tín hữu không thể tới dự, vì đó là hành động của Chúa Kitô và của Giáo Hội” (LM 13, đ. 3).
Khi nói đến nhiệm vụ truyền giáo của các linh mục, Công Đồng cho thấy nguồn gốc của chức linh mục có liên hệ mật thiết với Bí tích Thánh Thể :
“Vì nhờ thừa tác vụ riêng của mình, thừa tác vụ này cốt yếu hệ tại Bí tích Thánh Thể, bí tích kiện toàn Giáo Hội, các linh mục thông hiệp với Đức Kitô là Đầu và dẫn đưa kẻ khác đến sự thông hiệp này” (TG 39).
KẾT LUẬN
Công đồng Vaticanô II với bận tâm mục vụ đã đề cập đến Bí tích Thánh Thể trong tương quan với mọi hoạt động của Giáo Hội. Từ đó, Công đồng đưa ra những áp dụng mục vụ và linh đạo Thánh Thể trong cử hành phụng vụ, đặc biệt là cử hành Thánh Lễ, trong tôn thờ chiêm niệm, trong lời rao giảng, trong hoạt đông bác ái và loan báo Tin Mừng.
Mầu nhiệm Thánh Thể dường như thấm nhập vào trong tất cả các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II. Nhưng có lẽ điều mà Công Đồng ước mong hơn cả đó là mầu nhiệm Thánh Thể thấm nhập và toả chiếu trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.
VI. CÁC VĂN KIỆN GIÁO HOÀNG NÓI VỀ THÁNH THỂ (SAU VATICANO II)
Chúng ta có 3 văn kiện :
A. Thông điệp Mysterium Fidei của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, ban hành ngày 3. 9.1965.
B. Tông thư Dominicae cenae “Thư gửi hàng giám mục vào dịp thứ năm tuần thánh”, ban hành ngày 24.2.1980.
C. Thông điệp Ecclesia de Eucharistia của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, ban hành ngày 17.4.2003
Chúng ta sẽ trình bày nội dung chủ yếu các tài liệu này :
A. THÔNG ĐIỆP MYSTERIUM FIDEI “VỀ GIÁO LÝ VÀ SỰ SÙNG KÍNH PHÉP THÁNH THỂ”
1. Bối cảnh ra đời của thông điệp
Ngày 4.12.1963, Công đồng Vaticanô II công bố Hiến chế về Phụng vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium) và ngày 25.1.1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ban hành Tự sắc “Phụng vụ thánh” (Sacram Liturgiam) công bố Hiến chế Phụng vụ bắt đầu có hiệu lực. Ngày 3.9.1965, Đức Phaolô VI ban hành Thông điệp Mysterium Fidei về Bí tích Thánh Thể. Một câu hỏi được đặt ra là tại sao Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại ban hành Thông điệp này trước ngày khai mạc kỳ họp thứ IV của Công đồng (14.9.1965- 8.12.1965) ?
Phong trào canh tân Phụng vụ đã đem đến cho đời sống Giáo Hội một luồng gió mới. Một trong những điều tích cực của Phong trào canh tân này là người ta chú ý đến Bí tích Thánh Thể như trung tâm đời sống Phụng vụ của Giáo Hội và của đời sống người kitô hữu. Nhiều tác phẩm có giá trị nhằm đào sâu hơn và phổ biến cách hiệu quả hơn học thuyết về Thánh Thể, đặc biệt là những liên hệ giữa mầu nhiệm Thánh Thể và mầu nhiệm Giáo Hội (x. số 7-8).
Bên cạnh những điều tích cực, cũng có nhiều điều mà Đức Phaolô VI gọi là “gây âu lo cho việc mục vụ” (số 9). Trong số những tác giả nói hay viết về mầu nhiệm Thánh Thể, có nhiều người đưa ra các ý kiến gây xáo trộn tâm hồn các tín hữu, làm cho họ nghi ngờ các chân lý đức tin (số 10). Với trách nhiệm của người kế vị Phêrô, Đức Phaolô VI cảnh báo cho các giám mục trên thế giới biết về nguy hiểm trầm trọng của những ý kiến đó đối với đức tin chân chính (số 14) và quyết định, với quyền tông toà, trao đổi đề tài này và trình bày ý kiến của ngài với các giám mục (số 13).
Điều chúng ta cần biết ở đây là thần học kinh viện vẫn còn thống trị trong các đại học công giáo cho đến sau thế chiến thứ II. Đối với thần học kinh viện, khi bàn về Thánh Thể thì người ta thường bàn về những điều sau : Hy tế Thánh Thể, sự hiện diện đích thực, biến thể và chức tư tế thừa tác. Trong bối cảnh của phong trào canh tân Phụng vụ, khi bàn đến Thánh Thể, người ta lại chú ý nhiều đến chiều kích hiện sinh hơn là nhấn mạnh đến tín điều, tức là ảnh hưởng của Thánh Thể trên đời sống Giáo Hội, xã hội, cộng đoàn và cá nhân. Nhiều tác giả đã đưa ra những cách giải thích mới về sự hiện diện của Đức Kitô trong Thánh Thể mà không sử dụng thuật ngữ của truyền thống. Hiểu được bầu khí này, ta sẽ dễ hiểu chủ đích và ý tưởng chủ yếu của thông điệp. Chủ đích của thông điệp là nhắc lại giáo lý về Thánh Thể và ý tưởng chủ yếu là “sự hiện diện đích thực và bản thể” của Chúa Giêsu trong Thánh Thể.
Trong thông điệp này, Đức Giáo Hoàng bảo vệ giá trị trường tồn của giáo lý truyền thống về bí tích Thánh Thể và các khái niệm chính yếu truyền thống đã sử dụng, như khái niệm “Transsubstantiatio” (biến thể). Tuy nhiên giữ khái niệm đó không có nghĩa là ta không được phép đưa ra những khái niệm mới nhằm giải thích ý nghĩa. Qua thông điệp này, Đức Phaolô VI bày tỏ lập trường trong cuộc tranh luận về “Transsignification” (biến nghĩa) đang diễn ra chủ yếu bên Hòa Lan
2. Nội dung thông điệp
Thông điệp gồm 76 số, có thể được chia thành 2 phần chính, với nhập đề và kết luận :
+ Nhập đề : (số 1-14)
+ Phần 1 : Giáo lý về Thánh Thể (số 15-55)
o Thánh Thể là mầu nhiệm đức tin
o Mầu nhiệm Thánh Thể được hiện thực trong hy tế Thánh Lễ
o Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể
+ Phần 2 : Việc tôn sùng Thánh Thể (56- 74)
+ Kết luận : (75-76)
Chúng ta trình bày hai phần chính của Thông điệp
a. Phần 1: Giáo lý về Thánh Thể
Thánh Thể là mầu nhiệm đức tin
Để tránh mọi lây nhiễm của thuyết duy lý, thái độ đầu tiên mà đức giáo hoàng mong muốn người tín hữu phải có là nắm vững chân lý mà Giáo Hội từ bao đời đã tin vào Thánh Thể : Thánh Thể là một mầu nhiệm, và đúng hơn, một mầu nhiệm đức tin.
Từ đó, Đức giáo hoàng kêu mời chúng ta hãy đến với mầu nhiệm này với lòng cung kính khiêm nhường, không dựa vào lý trí loài người, nhưng vào Lời Chúa.
Khi tìm hiểu Mầu nhiệm này, ngài nói rằng chúng ta cần đi theo Huấn quyền của Giáo Hội, vì Giáo Hội được Đức Kitô ban quyền gìn giữ và giải thích Lời Chúa. Từ đó, ngài nhắc đến việc bảo vệ sự toàn vẹn của đức tin bằng việc tuân giữ cách diễn tả chính xác, vì sợ rằng khi sử dụng những thuật ngữ không chính xác, sẽ đưa đến những ý kiến lệch lạc. Cụ thể, không được quyền đụng đến công thức Công đồng Triđentinô dùng để trình bày giáo lý đức tin về Thánh Thể, mặc dù người ta có thể giải thích các công thức này rõ ràng và đầy đủ hơn, nhưng phải nằm trong ý nghĩa mà Giáo Hội xác định (x. số 23-25).
Mầu nhiệm Thánh Thể được hiện thực trong Hy tế Thánh Lễ :
Trong đoạn này, Đức Giáo Hoàng nhắc lại giáo lý truyền thống của Giáo Hội về Thánh Thể, nhắc lại điều có thể được gọi là sự tổng hợp và đỉnh cao giáo huấn của Giáo Hội : đó là trong mầu nhiệm Thánh Thể, hy tế Thập giá trên Núi Sọ được thể hiện cách kỳ diệu để ta tưởng niệm và hưởng nhờ hiệu quả cứu độ của hy tế thập giá
- Giáo lý này bắt nguồn từ chính Đức Giêsu, khi Người thiết lập mầu nhiệm Thánh Thể làm Giao ước mới, mà Người vừa là trung gian ký kết, vừa là Con Chiên chịu sát tế để niêm ấn – khi Người truyền cho các tông đồ cử hành hy tế này để nhớ đến Người (số 28)
- Lãnh nhận từ Chúa, giáo lý này được thánh Phaolô truyền lại, ngài không chấp nhận việc tín hữu Côrintô tham dự hy tế Thánh Thể mà còn tham dự hy tế dâng cho ma quỉ (x. 1Cr 10,16-21) (số 29)
- Ngoài ra, giáo lý này được tìm thấy trong nhiều chứng từ, chẳng hạn của thánh Cyrillô thành Giêrusalem, thánh Augustinô, nhìn nhận Đức Giêsu là lễ tế mới của Giao ước, của lễ đền tội, hy tế cứu độ mà Giáo Hội dâng lên Thiên Chúa để xin ơn tha tội, để cầu cho mọi nhu cầu, cho kẻ sống người chết (số 30)
Về khía cạnh hy tế của Thánh Lễ, dựa vào lời giảng dạy của các giáo phụ, của Đức Piô XII trong Thông điệp Mediator Dei (30.11.1947), của Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế tín lý về Hội Thánh (Lumen gentium), Đức Giáo Hoàng nói thêm một điểm nữa để giúp hiểu Mầu nhiệm Giáo Hội : đó là, toàn thể Giáo Hội khi kết hiệp với Đức Kitô chu toàn vai trò làm tư tế và làm của lễ, tất cả Giáo Hội vừa dâng hy tế của Thánh Lễ, vừa dâng hiến chính mình trong Thánh Lễ (số 31).
- Từ giáo lý này, một hệ luận thần học được rút ra, đó là, tính công cộng và xã hội của mọi Thánh Lễ. Hệ luận này được Đức giáo hoàng dùng như một luận chứng nhằm bác bỏ một ý kiến sai lạc, đó là hạ giá “Thánh Lễ riêng tư” (x. số 11).
Như vậy, một thánh lễ riêng do một mình linh mục cử hành không là “tư riêng”, nhưng là hành động của Đức Kitô và Giáo Hội. Mọi Thánh Lễ đều được dâng vì phần rỗi của toàn thế giới, chứ không phải của một số người. Bởi đó, mặc dù Thánh Lễ có đông giáo dân tham dự rất đáng cổ võ, nhưng Thánh Lễ riêng (chỉ có linh mục và một người giúp lễ) vẫn đáng tán thành. Vì Thánh Lễ này mang lại nhiều ơn cho bản thân linh mục và cho Dân Chúa hơn là nguyên việc rước lễ mà thôi.
Từ đó, Đức Giáo Hoàng khuyên các linh mục là những người khi chịu chức đã nhận quyền dâng hy tế cho Thiên Chúa và dâng lễ cầu cho kẻ sống người chết, hãy cử hành thánh lễ mỗi ngày cách xứng đáng và sốt sắng, để chính mình và các tín hữu được hưởng nhờ hoa trái dồi dào của hy tế thập giá, và để giúp cả nhân loại được cứu độ.
Đức Kitô hiện diện cách bí tích trong Hy tế Thánh Lễ
Đây là ý tưởng chủ yếu của Thông điệp. Đức Giáo Hoàng đã dành 12 số (34-45) để bàn đến vấn đề này. Ngài lần lượt liệt kê các cách thức hiện diện của Chúa Giêsu trong Hội Thánh (x. PV 7) để rồi đưa đến đỉnh cao là sự hiện diện của Chúa trong Thánh Thể.
- Đức Giêsu hiện diện trong Giáo Hội đang cầu nguyện (x. Mt 18,20) ;
- Ngài hiện diện trong Hội Thánh đang thực thi bác ái ;
- Ngài hiện diện trong Giáo Hội lữ hành đang khát mong đạt đến đời sống vĩnh cửu ;
- Ngài hiện diện trong Giáo Hội rao giảng ;
- Ngài hiện diện trong Giáo Hội đang hướng dẫn và lãnh đạo dân Chúa ;
- Nhưng Đức Kitô hiện diện cách cao vời nhất trong Giáo Hội, khi nhân danh Người, cử hành hy tế Thánh Lễ và ban phát bí tích.
- Cách hiện diện siêu vượt nhất của Đức Kitô là cách hiện diện trong Thánh Thể. Cách hiện diện này làm cho Thánh Thể trở thành bí tích chứa đựng chính Đức Kitô là sự sống của Giáo Hội.
- Sự hiện diện của Đức Kitô trong Thánh Thể là sự hiện diện “đích thực” (realiter – réelle). Đức Giáo Hoàng giải thích sự hiện diện “đích thực” không có nghĩa là các cách hiện diện khác của Chúa Giêsu không có thực, nhưng theo nghĩa đây là sự hiện diện bản thể (substantialiter -substantielle), qua đó, Đức Kitô, vừa là Thiên Chúa vừa là con người, hiện diện một cách trọn vẹn (số 39)
Với giáo lý về Thánh Thể được Công đồng Triđentinô xác định, Đức giáo hoàng bác bỏ những giải thích sai lạc về sự hiện diện của Chúa trong Thánh Thể. Cụ thể, ngài nói đến những cách giải thích sau đây :
(1) Quan niệm cho rằng thân xác Đức Kitô vinh hiển chỉ có một thứ hiện diện “thuộc về Thần Khí” (pneumatique), nghĩa là hiện diện ở khắp mọi nơi ;
(2) Quan niệm cho rằng Đức Kitô chỉ hiện diện như một dấu chỉ, một dấu chỉ tượng trưng cho sự hiện diện thiêng liêng của Đức Kitô, tượng trưng cho sự kết hợp mật thiết của Ngài với các tín hữu.
Đức Giáo Hoàng công nhận rằng Thánh Thể vẫn mang một tính biểu tượng và tính biểu tượng này đã được các Giáo phụ và các nhà Kinh viện tìm hiểu nhiều, nhất là trong tương quan với sự hiệp nhất của Giáo Hội. Chẳng hạn như Công đồng Triđentinô : Đức Kitô để lại Thánh Thể cho Giáo Hội như biểu tượng sự hiệp nhất của Giáo Hội, sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu, và do đó như một biểu tượng của Nhiệm thể mà Ngài là Đầu. Sách Didachè đã nhận ra sự kiện tấm bánh được làm nên do muôn ngàn hạt lúa tản mác là hình ảnh sự tập họp của Giáo Hội.
Tuy nhiên, Đức Giáo Hoàng nói rằng giải thích theo lối biểu trưng chưa đủ, bởi vì tính biểu trưng đó chỉ mới giúp ta hiểu hiệu quả của Bí tích Thánh Thể là tạo ra sự hiệp nhất của Giáo Hội, chứ chưa giải thích và cho thấy chính đặc điểm riêng của bí tích này trong bản chất nó, so với các bí tích khác, bởi vì nó là sự hiện diện đích thực của Đức Kitô (số 44) ;
Để củng cố cho lập luận thần học của mình, Đức Giáo Hoàng nhắc lại đức tin truyền thống của Giáo Hội. Giáo Hội luôn dạy các dự tòng phải tuyên xưng rằng Thánh Thể là Thân xác của Chúa Cứu Thế, thân xác đã chết và sống lại vì ta.
Đức Kitô hiện diện trong Thánh Thể nhờ việc biến thể.
Đức Giáo Hoàng trực tiếp đề cập và bảo vệ thuyết biến thể (số 46- 55) vì chính sự biến thể này bảo đảm sự hiện diện đích thực của Đức Kitô trong bánh rượu đã được truyền phép.
- Để tránh hiểu lầm về cách thế hiện diện vượt những định luật tự nhiên này, Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta cần lắng nghe tiếng nói của Giáo Hội trong giáo huấn và trong kinh nguyện của Giáo Hội.
- Tiếng nói của Giáo Hội vọng lại tiếng nói của Đức Kitô, bảo đảm với ta rằng Đức Kitô chỉ hiện diện trong bí tích này bằng sự chuyển đổi bản thể của bánh thành Mình Chúa và chuyển đổi bản thể của rượu thành Máu Chúa – một sự chuyển đổi đặc thù và diệu kỳ mà Giáo Hội công giáo diễn tả bằng từ “biến thể” (transsubstantiatio)
- Sau khi việc biến thể hoàn tất, những hình sắc của bánh và rượu mang một ý nghĩa và một cứu cánh mới, chúng không còn là bánh rượu thông thường nữa, mà là dấu chỉ của lương thực thiêng liêng.
- Các hình dạng này mang ý nghĩa và cứu cánh mới qua việc chúng chứa một thực tại mới, một thực tại có tính cách hữu thể học
- Khi bánh và rượu đã trở nên Mình Máu Chúa, sẽ không còn bản thể của bánh và rượu nữa, chỉ trừ hình dạng (espèce, apparence), dưới những hình dạng đó, Đức Kitô hiện diện trọn vẹn với cả thực tại thể lý, dù cách thức có khác biệt với các vật thể chiếm một nơi chốn.
- Sự biến đổi bánh rượu thành Mình và Máu Chúa là do quyền năng của Thiên Chúa và những lời của Đức Kitô, những lời có quyền biến đổi mọi sự.
b. Phần 2: Việc tôn sùng Thánh Thể (số 56 – 74)
Giáo Hội diễn tả niềm tin vào sự hiện diện của Mình Máu Đức Kitô trong Thánh Thể và không ngừng thể hiện một lòng tôn thờ chỉ dành riêng cho Thiên Chúa. Giáo Hội đã và tiếp tục tổ chức nền phụng-tự tôn thờ đối với bí tích Thánh Thể này không những trong Thánh Lễ mà còn ngoài giờ cử hành Thánh Lễ nữa, qua việc cẩn thận lưu giữ những bánh thánh đã được hiến thánh, qua việc trưng bầy cho tín hữu long trọng chầu kính, qua việc rước kiệu.
Việc tôn kính này được nhiều tài liệu rất cổ xưa của Giáo Hội chứng thực :
- Các vị chủ chăn trong Giáo Hội luôn dặn tín hữu giữ rất cẩn thận Mình Thánh Chúa mà họ mang về nhà. Thánh Hippôlitô khuyên tín hữu không được khinh thường Mình Chúa.
- Theo Origène, khi giữ Mình Thánh Chúa và lỡ để rơi một mẩu nhỏ, tín hữu phải tự xét là mình mang tội.
- Novatiô kết án kẻ mang Mình Thánh Chúa mà không về nhà ngay, còn ghé qua hí trường.
- Thánh Cyrillô thành Alexandria chống lại ý tưởng cho rằng phần Mình Thánh Chúa còn lại từ hôm trước không thánh hóa tín hữu, vì theo ngài, Mình Thánh Chúa không thay đổi, luôn có sức mạnh và ơn thánh.
- Người ta cũng không thể quên là thời xưa, các tín hữu bị bách hại, hoặc tu rừng đều có thói quen tự rước Chúa mỗi ngày bằng tay, nếu không có linh mục hoặc phó tế.
Hệ luận mục vụ
- Đức Giáo Hoàng xin các chủ chăn giữ gìn nơi giáo dân lòng tin nguyên tuyền, lòng tin trung thành với lời Đức Kitô và các Tông đồ, và khử trừ mọi ý kiến sai lạc, nguy hại, đồng thời xin cổ võ việc tôn sùng Thánh Thể, trung tâm mọi hình thức đạo đức khác.
- Ngài xin các chủ chăn giúp tín hữu hiểu lời căn dặn của thánh Augustinô là để được có dồi dào sự sống, được trở nên một phần tử lành mạnh, hãy đến cùng Đức Giêsu Thánh Thể với lòng tin yêu
- Ngỏ lời với các Giáo Hội Đông phương, Đức Giáo Hoàng diễn tả niềm vui của ngài khi thấy các Giáo hội ấy có cùng một đức tin đối với Thánh Thể, khi thấy lòng tôn sùng Thánh Thể và khi đọc những tác phẩm của họ trình bày và bảo vệ bí tích Thánh Thể.
B. TÔNG THƯ DOMINICAE CENAE
“Về mầu nhiệm Thánh Thể và việc phụng thờ Mình và Máu Thánh Đức Kitô” của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, ban hành ngày 24.2.1980.
1. Bối cảnh của Tông thư
Đây là bức thư của Đức Gioan-Phaolô II gửi cho hàng giám mục thế giới vào ngày thứ năm tuần thánh 1980, ngày của Thánh Thể và của chức linh mục. Với đề tựa của lá thư và ngày mà lá thư được công bố, (ngày thứ năm tuần thánh, 18.3.1980), ta có thể thấy được chủ đích của Đức Gioan-Phaolô II. Ngài muốn suy nghĩ về mối tương quan giữa Thánh Thể và chức linh mục thừa tác : linh mục là người của Thánh Thể. Do đó, việc tôn thờ Thánh Thể phải toả chiếu trong đời sống linh mục.
Bức thư mang tính mục vụ và linh đạo nhiều hơn là giáo thuyết.
2. Nội dung :
Lá thư chia làm ba phần, với nhập đề và kết luận :
+ Phần 1 : Mầu nhiệm Thánh Thể trong đời sống của Giáo Hội và của các linh mục.
+ Phần 2 : Tính cách thánh thiêng của Thánh Thể và hy lễ.
+ Phần 3 : Hai bàn tiệc của Chúa và gia sản chung của Hội Thánh.
Chúng ta sẽ đi vào nội dung chủ yếu của bức thư.
a. Phần 1 : Mầu nhiệm Thánh Thể trong đời sống của Giáo Hội và của các linh mục
1) Chủ đề của bức thư :
Đức Giáo Hoàng đã nói đến chủ đề của bức thư này một cách rõ ràng :
“Tôi muốn dành bức thư này để nói về Bí tích Thánh Thể, đặc biệt, về một vài khía cạnh của mầu nhiệm có ảnh hưởng trên đời sống của những thừa tác viên có trách nhiệm cử hành mầu nhiệm này” (số 2, đ. 1).
2) Lý do của mối tương quan giữa Thánh Thể và đời sống linh mục :
Trước khi đi vào trọng tâm của bức thư là lòng yêu mến và tôn súng Thánh Thể trong đời sống linh mục, Đức giáo hoàng đưa ra 3 lý do thần học để cho thấy có một mối dây liên hệ mật thiết giữa Thánh Thể và đời sống linh mục :
a) “Bí tích Thánh Thể là nguyên nhân chính và trọng yếu của Bí tích Truyền chức, vì Bí tích này thực sự được hình thành trong lúc Chúa thiết lập Bí tích Thánh Thể, và thành hình cùng một lúc với Bí tích Thánh Thể” (số 2, đ. 3)
b) “Do chức thánh – nghi lễ truyền chức gắn liền với Thánh Lễ, theo những tài liệu phụng vụ đầu tiên - chúng ta (các linh mục) được kết hiệp một cách đặc biệt và đặc cách với Bí tích Thánh Thể. Theo một cách nào đó, chúng ta hiện hữu là “do Bí tích Thánh Thể” và “cho Bí tích Thánh Thể”. Và một cách đặc biệt, chúng ta cũng có trách nhiệm “về Bí tích Thánh Thể” (số 2, đ. 5)
c) “Mầu nhiệm này cũng được ban tặng cho toàn thể dân Chúa, cho tất cả những ai tin vào Đức Kitô, nhưng riêng chúng ta là những người đã được Chúa trao Bí tích Thánh Thể để phục vụ người khác, là những kẻ mong đợi nơi chúng ta một chứng tá đặc biệt về lòng sùng kính và mến yêu bí tích này” (số 2, đ. 5).
3) Việc tôn sùng Thánh Thể : Trọng tâm của lá thư
a) Trước khi đi vào đề tài trọng tâm, Đức Giáo Hoàng đưa ra lời dẫn nhập
“Linh mục thi hành sứ mạng chính của mình và biểu lộ toàn diện “căn tính linh mục” khi cử hành nghi lễ Tạ ơn. Việc biểu lộ này sẽ trọn vẹn hơn khi chính linh mục chiếu toả chiều sâu của mầu nhiệm này, để mầu nhiệm này, qua việc thi hành thừa tác vụ linh mục, được chói ngời trong tâm hồn và lương tâm của mọi người” (số 2, đ. 7)
b) Điểm đầu tiên mà Đức Giáo Hoàng muốn làm sáng tỏ đó là bản chất của việc tôn sùng Thánh Thể. Việc tôn sùng này mang chiều kích Ba Ngôi :
“Việc tôn sùng Thánh Thể hướng về Chúa Cha, nhờ Đức Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần” (số 3, đ. 1).
c) Với chiều kích Ba Ngôi của lòng tôn sùng Thánh Thể, Đức Giáo Hoàng đưa ra giải thích thần học :
“Sự tôn thờ là câu đáp trả trọn nghĩa với “Tình thương” đã hy sinh cho đến chết trên thập giá ; đó là lối chúng ta “Tạ ơn”, nghĩa là lời tri ân của chúng ta, lời ngợi khen, vì đã được chuộc lại nhờ cái chết của Người và được chia sẻ đời sống bất tử nhờ cuộc phục sinh của Người” (số 3, đ. 3)
d) Lòng tôn sùng Thánh Thể phải biểu lộ một cách cụ thể và dưới nhiều hình thức :
“Thái độ tôn sùng này phải biểu lộ rõ nét mỗi lần chúng ta viếng Thánh Thể, khi tham quan các nhà thờ, hay khi đem Mình Chúa cho các bệnh nhân. Việc tôn thờ Chúa Kitô trong Bí tích tình thương này còn được diễn tả dưới nhiều hình thức tôn sùng mầu nhiệm Thánh Thể : cầu nguyện riêng tư trước Thánh Thể, những giờ tôn thờ, chầu Thánh Thể cách ngắn ngủi, lâu giờ hay hằng năm, chầu Phép lành, kiệu Thánh Thể, các Đại hội Thánh Thể” (số 3, đ. 4-5).
e) Hội Thánh và thế giới ngày nay đang rất cần việc tôn thờ Thánh Thể. Đức Giáo Hoàng mời gọi các linh mục đáp trả sự mong đợi này một cách quảng đại :
“Hội Thánh và thế giới đang rất cần việc tôn sùng Thánh Thể. Đức Giêsu đang chờ đợi chúng ta trong bí tích tình yêu này. Chúng ta đừng tiếc thời giờ để đến gặp Người trong tôn thờ, trong chiêm ngắm đầy đức tin và luôn sẵn sàng đền bồi các tội lỗi của thế giới. Chớ gì chúng ta không bao giờ ngưng nghỉ việc tôn thờ Thánh Thể !” (số 3, đ. 6).
f) Sự găp gỡ liên chủ vị làm nên bản chất của việc tôn thờ Thánh Thể :
“Trong tư cách là thầy dậy và người bảo vệ chân lý cứu độ về Mầu nhiệm Thánh Thể, chúng ta phải luôn chú tâm đến ý nghĩa và chiều kích của việc gặp gỡ Đức Kitô trên bình diện bí tích và sự thân mật với Người. Thật vậy, đó là những điều tạo nên bản chất của việc tôn sùng Mầu nhiệm Thánh Thể” (số 4, đ. 1).
Điều chúng ta ghi nhận là bức thư có tất cả 13 số mà Đức Giáo Hoàng đã dành 5 số (3-7) để nói về lòng tôn sùng Thánh Thể.
4) Mầu nhiệm Thánh Thể và Giáo Hội (số 4)
Cũng như “Giáo Hội làm nên Thánh Thể” thì “Thánh Thể cũng làm nên Giáo Hội”
a) Thánh Thể xây dựng sự hiệp thông với Chúa
“Khi tuân theo lệnh truyền của Người, lần đầu tiên họ (các tông đồ) đã đi vào sự thông hiệp bí tích với Con Thiên Chúa, một sự thông hiệp làm bảo chứng cho đời sống vĩnh cửu. Từ giây phút đó trở đi và mãi cho đến tận thế, Hội Thánh được xây dựng bởi cùng một sự hiệp thông với Con Thiên Chúa, làm bảo chứng cho cuộc vượt qua vĩnh cửu” (số 4, đ. 1).
b) Thánh Thể xây dựng sự hiệp thông với nhau
“Những ai tham dự vào hy lễ của Đức Kitô được xích lại gần nhau một cách thiêng liêng và được hiệp thông với nhau : chính hy lễ của Đức Kitô, qua việc hiệp lễ, trở thành một bữa tiệc đối với họ. Sự xích lại và hiệp thông với nhau, mà nguyên mẫu là sự hiệp thông của các tông đồ chung quanh Chúa Kitô trong bữa Tiệc Ly, diễn tả và xây dựng Giáo Hội ” (số 4, đ. 2).
5) Mầu nhiệm Thánh Thể và đức ái (số 5)
a) Thánh Thể là bí tích tình yêu và là nguồn mạch của đời sống đức ái. Lòng tôn sùng Thánh Thể sẽ đưa chúng ta tới việc thực thi đức ái :
“Việc tôn sùng Mầu nhiệm Thánh Thể là linh hồn của mọi đời sống kitô hữu. Thật vậy, nếu đời sống kitô hữu được diễn tả trong việc chu toàn lệnh truyền cao cả, nghĩa là trong tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân thì tình yêu đó bắt nguồn từ chính bí tích thánh, thường được gọi là bí tích tình yêu […] Không những chúng ta biết được tình thương mà chúng ta còn bắt đầu yêu thương. Có thể nói chúng ta bước vào con đường của tình yêu và thực hiện những bước tiến trên con đường này. Tình yêu phát xuất từ mầu nhiệm Thánh Thể, hình thành trong chúng ta, phát triển, cắm rễ sâu và trở nên vững chắc trong ta nhờ mầu nhiệm này” (số 5, đ. 1; đ. 3)
b) Việc tôn sùng Thánh Thể thúc đẩy chúng ta sống phục vụ yêu thương, đó là ơn gọi của người Kitô hữu :
“Việc tôn sùng mầu nhiệm Thánh Thể là cách diễn tả tình yêu, một nét đặc thù và sâu thẳm nhất của ơn gọi kitô hữu. Việc tôn sùng đó xuất phát từ tình yêu và phục vụ tình yêu, đó là ơn gọi của chúng ta trong Đức Giêsu Kitô” (số 5, đ. 4).
KẾT LUẬN :
Như vậy, Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa và của Đức Kitô đối với nhân loại. Thiên Chúa Cha đã ban hồng ân tuyệt hảo cho nhân loại là chính Đức Kitô (x. Ga 3,16), để rồi chính Đức Kitô hiến mạng sống vì chúng ta. Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của một tình yêu trao ban mạng sống. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể cũng là dấu chứng của một tình yêu luôn muốn hiện diện bên ta. Tình yêu tuyệt đối đó mời gọi một tình yêu đáp trả về phía chúng ta.
6) Mầu nhiệm Thánh Thể và tha nhân (số 6)
a) Bí tích Thánh Thể là trường học dậy yêu thương tha nhân :
“Ý nghĩa chính xác của Bí tích Thánh Thể, tự nó trở thành một trường học yêu thương hưóng về tha nhân… Mầu nhiệm Thánh Thể giáo dục chúng ta sống tích cực tình yêu này” (số 6, đ. 1).
b) Việc tôn sùng Thánh Thể giúp ta ý thức về phẩm giá con người :
“Nếu việc tôn sùng Thánh Thể có giá trị đích thực, thì sẽ làm nảy sinh trong chúng ta ý thức về nhân phẩm của mọi người. Ý thức phẩm giá này trở thành lý do sâu thẳm nhất cho tương quan của chúng ta với tha nhân” (số 6, đ. 1).
7) Mầu nhiệm Thánh Thể và cuộc sống (số 7)
a) Việc tôn thờ Thánh Thể là trọng tâm và là mục đích của toàn thể đời sống Kitô hữu :
“Vì là nguồn mạch của Đức ái, mầu nhiệm Thánh Thể bao giờ cũng là trọng tâm đời sống các môn đệ Chúa Kitô. Mầu nhiệm này tỏ hiện dưới hình bánh rượu, nghĩa là như của ăn và thức uống, nên rất gần gũi với con người, nối kết chặt chẽ với cuộc sống con người như lương thực cần thiết. Tôn thờ Thiên Chúa là Tình Yêu, trong việc tôn sùng Thánh Thể, sẽ làm nảy sinh sự mật thiết, trong đó chính Người trở thành của ăn và thức uống cho đời sống thiêng liêng [… ]. Chính từ ý tưởng tôn thờ Thánh Thể như thế mà xuất phát tất cả “tính bí tích’ của đời sống Kitô hữu […]. Như vậy, việc tôn thờ Thánh Thể là trọng tâm và là mục đích của toàn thể đời sống bí tích” (số 7, đ. 1 ; 3 ; 4)
b) Chiều kích cánh chung và nhân bản của việc tôn thờ Thánh Thể :
“Quả vậy, tất cả những gì thuộc về con người được biến đổi và được nâng cao một cách đặc biệt trong bí tích thánh này, bí tích của lương thực và thức uống. Việc tôn sùng Mầu nhiệm Thánh Thể không phải là sự thờ phượng một Đấng Siêu Việt vô phương đạt thấu, cho bằng phụng thờ một Thiên Chúa chiếu cố đến con người, đó là một sự biến đổi thế giới có tính nhân từ và cứu độ ngay trong tâm hồn con người” (số 7, đ. 8).
b. Phần 2 : Tính cách thánh thiêng của Bí tích Thánh Thể và Hy lễ.
Trong phần 2, Đức Giáo Hoàng triển khai chủ đề “thánh thiêng” (sacrum) và “Hy lễ” (Sacrificium) dưới khía cạnh mục vụ nhiều hơn là giáo thuyết, để rồi đưa ra những hệ luận mục vụ cho đời sống linh mục.
1) Tính cách thánh thiêng (sacrum) :
Tính cách thánh thiêng của Bí tích Thánh Thể là do Chúa Kitô thiết lập trong bữa Tiệc Ly, không hề thay đổi. Đây là điều trọng yếu và bất biến trong Phụng vụ Tạ ơn.
“Yếu tố trọng yếu đó gắn liền mật thiết với “tính thánh thiêng” (sacrum) của bí tích Thánh Thể, nghĩa là một hành động thánh và thiêng. Thánh và thiêng, bởi vì trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Kitô luôn hiện diện và hoạt động […] Thật vậy, chính Người hiện diện qua vị chủ tế tiến vào cung thánh và loan báo Tin Mừng. Chính Người là ‘Đấng hiến tế và là lễ vật, là Người hiến thánh và là của lễ được hiến thánh’. Hành động thánh và thiêng, vì chính hành động của Người tạo nên của thánh (Saintes espèces), tạo ra “sancta sanctis”, nghĩa là “các của thánh – Chúa Kitô, Đấng Thánh – ban tặng cho các thánh”(số 8, đ. 2 ; 3).
Như vậy, chính Đức Kitô thiết lập tính thánh thiêng cho bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, đồng thời cũng thiết lập tính thánh thiêng cho thừa tác vụ cử hành, có nghĩa là tính thánh thiêng của chức vụ linh mục, để vị này có thể cử hành in persona Christi
“Ngày nay, các thừa tác viên của Thánh Thể phải chiếu tỏa ánh sáng đức tin sống động này và dưới ánh sáng đức tin này, họ phải hiểu và hoàn tất những gì thuộc về thừa tác vụ tư tế, theo ý muốn của Chúa Kitô và Giáo Hội Người” (số 8, đ. 9).
2) Hy lễ (sacrificium)
Mầu nhiệm Thánh Thể là một Hy lễ, hy lễ cứu chuộc và là hy lễ giao ước mới. Có lẽ đây là phần quan trọng nhất mang tính thần học trong toàn bộ bức thư.
“Do đó, vị chủ tế, trong tư cách là thừa tác viên của Hy lễ, là tư tế đích thực – và nhờ vào quyền thánh chức đặc biệt – thực hiện hành động hiến tế đưa muôn loài về với Thiên Chúa. Ngược lại, tất cả những ai thông phần Thánh Thể, dù không hiến tế như ngài, thì nhờ chức tư tế cộng đồng, họ cùng với ngài dâng tiến hy lễ thiêng liêng của mình, tượng trưng bằng bánh và rượu ngay từ lúc được dâng lên bàn thờ” (số 9, đ. 3)
Khi cử hành Thánh Lễ, hy lễ của Hội Thánh dâng lên Thiên Chúa cũng là hy lễ của Đức Kitô. Hy Lễ thiêng liêng của người tín hữu được liên kết với hy lễ của Đức Kitô :
“Kinh nguyện Thánh Thể III đã diễn tả một cách đặc biệt tính chất Hy tế của Bí tích Thánh Thể và nối kết việc hiến dâng lễ vật của chúng ta với hiến lễ của Đức Kitô : “Nguyện xin Cha đoái nhìn hiến lễ của Hội Thánh và nhận đây chính là hy lễ Con Cha đã dâng tiến, để nhân loại được giao hoà với Cha. Và khi chúng con được Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng, được đầy tràn Thánh Thần của Người, xin cho chúng con trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô. Nguyện xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng con thành của lễ muôn đời dâng hiến Cha” (số 9, đ. 5)
“Giá trị hy lễ được diễn tả trong mỗi cử hành bằng những lời linh mục dùng để kết thúc việc tiến dâng lễ vật, khi linh mục kêu mời tín hữu cầu nguyện “khi tiến dâng lễ vật của toàn thể Hội Thánh” (số 9, đ. 6)
Cách đọc Kinh nguyện Thánh Thể và nhất là đọc lời truyền phép biểu lộ linh mục có tâm hồn kính trọng tính thánh thiêng của Bí tích Thánh Thể và biểu lộ thái độ tôn thờ Thánh Thể của linh mục :
“Việc tôn sùng Thánh Thể được đào sâu và tăng trưởng khi kinh nguyện Thánh Thể, đặc biệt là lời truyền phép, được chủ tế đọc lên cách khiêm tốn và trang nghiêm, cách dễ hiểu, xứng với tính thánh thiêng của mầu nhiệm, một cách đẹp đẽ và xứng đáng, khi hành động chính yếu của Phụng vụ Thánh Thể được cử hành cách khoan thai, khi hướng đến thái độ tôn sùng và chiêm niệm, giúp cho người tham dự khám phá được tính cách cao cả của mầu nhiệm đang diễn ra, và bộc lộ lòng tôn sùng qua thái độ của họ” (số 9, đ. 10)
c. Phần thứ 3 : Hai bàn tiệc của Chúa và gia sản chung của Hội Thánh
Trong phần thứ 3, Đức Giáo Hoàng nói đến 2 bàn tiệc trong Phụng vụ Thánh Lễ : Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể nghĩa là bàn tiệc Bánh của Chúa.
Trong phần này, Đức Giáo Hoàng nói về việc cử hành bàn tiệc Lời Chúa theo đúng nghi lễ Phụng vụ đòi hỏi. Riêng đối với Bàn tiệc Thánh Thể, ngài muốn trình bày hai vấn đề mục vụ :
- Các điều kiện để được hiệp lễ ;
- Việc trao ban và lãnh nhận bánh thánh cách xứng đáng.
“Trong đời sống cộng đoàn, chúng ta không thể để mất đi sự nhạy cảm của lương tâm Kitô giáo, được hướng dẫn nhờ quy chiếu về Đức Kitô, Đấng được lãnh nhận trong Bí tích Thánh Thể, sẽ tìm được trong trái tim mỗi người một nơi cư ngụ xứng đáng” (số 11, đ. 6)
Trong số 12, Đức Giáo Hoàng nói đến Thánh Thể như một gia sản chung của Giáo Hội. Thánh Thể là tặng phẩm vĩ đại, trên bình diện ân sủng và bí tích mà Đức Kitô đã ban và không ngừng ban cho Giáo Hội.
Tặng phẩm này đòi hỏi lòng tín nhiệm và tri ân. Lòng tín nhiệm và tri ân phải được diễn tả cách cụ thể qua sự tuân giữ các đòi hỏi Phụng vụ liên quan đến cử hành Thánh Lễ.
Trong phần kết luận (số 13), Đức Giáo Hoàng cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa việc canh tân Phụng vụ được Công Đồng Vaticanô II đề ra và việc canh tân toàn thể đời sống Giáo Hội.
C. THÔNG ĐIỆP ECCLESIA DE EUCHARISTIA (GIÁO HỘI TỪ THÁNH THỂ)
1. Bối cảnh ra đời của Thông điệp
Hành trình sống đức tin mà Đức Gioan Phaolô II vạch ra cho Giáo Hội vào lúc bình minh của ngàn năm thứ ba trong Tông thư Novo Millennio ineunte (Bước vào ngàn năm mới) là kêu mời Giáo Hội ra khơi trên đại dương của lịch sử với nhiệt tình Tân-Phúc-Âm-hoá. Lời kêu mời này được tiếp nối và đạt đến đỉnh cao trong Tông thư Rosarium Virginis Mariae (Kinh Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria). “Hãy ra khơi” (Duc in altum) bằng cách chiêm ngắm khuôn mặt của Chúa Kitô, chiêm ngắm cùng với Mẹ Maria. Việc chiêm ngắm Chúa Kitô đòi buộc mọi người phải nhận ra Ngài bất cứ nơi nào Ngài tỏ hiện, trong nhiều cách thế hiện diện của Ngài, nhưng trên hết trong Bí tích Thánh Thể.
Từ khi bắt đầu nhiệm vụ của người kế vị thánh Phêrô, Đức Gioan Phaolô II luôn muốn đem lại cho ngày Thứ Năm Tuần Thánh, ngày của Thánh Thể và của chức tư tế một dấu hiệu lưu tâm đặc biệt bằng cách gửi một bức thư cho tất cả các linh mục trên thế giới. Một cách đặc biệt, trong năm thứ hai mươi lăm triều đại giáo hoàng của ngài, và trong năm Mân Côi, ngài muốn lôi kéo một cách rộng rãi hơn, toàn thể Giáo Hội vào việc suy tư về Thánh Thể, và đồng thời ngài cũng muốn dùng thông điệp này để tạ ơn Chúa vì Hồng ân của Thánh Thể và của chức tư tế.
Qua Thông điệp này, Đức Thánh Cha muốn khơi lại tâm tình ngưỡng mộ Thánh Thể, ngưỡng mộ với lòng biết ơn Chúa. Tâm tình ngưỡng mộ này phải luôn thấm nhập Giáo Hội khi quy tụ lại để cử hành Thánh Thể, nhưng trên hết nó phải tràn ngập tâm hồn thừa tác viên Thánh Thể.
Ngài cũng muốn dùng Thông điệp này để chỉ rõ một cách mạnh mẽ hơn nữa chỗ đứng trung tâm của Bí tích Thánh Thể trong đời sống Giáo Hội. Giáo Hội sống nhờ Thánh Thể (Ecclesia de Eucharistia vivit). Giáo Hội nuôi mình bằng “bánh hằng sống” này. Thánh Thể làm nên Giáo Hội (Eucharistie fait l’Eglise).
Thông điệp được ban hành ngày 17 tháng 4 năm 2003, Thứ Năm Tuần Thánh, trong năm thứ 25 triều đại giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II và trong năm Mân Côi.
Thông điệp gồm phần 6 chương với phần dẫn nhập và kết luận với 62 số :
- Dẫn nhập (số 1-10)
- Chương I (số 11-20) : Thánh Thể là Mầu nhiệm Đức Tin
- Chương II (số 21-25) : Thánh Thể xây dựng Giáo Hội
- Chương III (số 26-33) : Đặc tính tông truyền của Bí tích Thánh Thể và của Giáo Hội.
- Chương IV (số 34-46) : Thánh Thể và sự hiệp thông Giáo Hội
- Chương V (số 47-52) : Phẩm giá của việc cử hành Thánh Thể
- Chương VI (số 53-58) : Nơi trường học của Đức Maria, người nữ “Thánh Thể”
- Kết luận (số 59-62)
Chúng ta sẽ tóm tắt nội dung của từng chương trong Thông điệp.
2. Nội dung Thông điệp
Giáo Hội sống nhờ Thánh Thể (Ecclesia de Eucharistia vivit) : chân lý này không chỉ diễn tả kinh nghiệm hằng ngày của đức tin : Thánh Thể là sự sống cho Giáo Hội lữ hành, nhưng dưới hình thức tổng hợp, nó còn gồm tóm cả cốt lõi của mầu nhiệm Giáo Hội : Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể đời sống Kitô hữu (x. GH 11).
Từ việc nhắc lại kỷ niệm được cử hành Thánh Lễ Tạ ơn tại nhà Tiệc Ly ở Giêrusalem trong Đại Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đã nói đến việc Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể. Nhà Tiệc Ly là nơi Bí tích rất thánh này được thiết lập. Bí tích Thánh Thể là Bí tích của mầu nhiệm vượt qua. Giáo Hội được khai sinh từ mầu nhiệm vượt qua. Vì thế, Bí tích Thánh Thể nằm ở trung tâm đời sống Giáo Hội.
Đức Thánh Cha cho thấy việc thiết lập Bí tích Thánh Thể trong nhà Tiệc Ly là một khoảnh khắc quyết định của việc thiết lập Giáo Hội. Nền tảng và nguồn gốc của Giáo Hội chính là tất cả Tam Nhật Vượt Qua (Triduum Pascal), nhưng Tam Nhật này như được chứa đựng, được thực hiện trước và “cô động lại” mãi mãi trong hồng ân Thánh Thể.
Bí tích Thánh Thể hiện tại hoá biến cố vượt qua theo dòng thời gian.
Bí tích Thánh Thể là sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu trong cộng đoàn tín hữu và là lương thực thiêng liêng cho cộng đoàn này, là những gì quý giá nhất mà Giáo Hội có thể có được theo dòng thời gian. Điều này giải thích lý do tại sao Giáo Hội lại ân cần chú tâm đến Mầu nhiệm Thánh Thể. Giáo Hội không thể đào sâu bất cứ một khía cạnh nào trong sinh hoạt của mình mà không tiếp xúc với Mầu nhiệm Thánh Thể.
Sự chú tâm chính thức được thấy rõ trong công trình của các Công Đồng và của các Đức Giáo Hoàng, chẳng hạn Sắc lệnh về Bí tích Thánh Thể và về Hy Tế Thánh Lễ của Công Đồng Triđentinô. Thông điệp Mirae caritatis của Đức Lêô XIII (28.5.1902), Mediator Dei của Đức Piô XII (20.11.1947) và Mysterium fidei của Đức Phaolô VI (3.9.1965).
Công Đồng Vaticanô II dù không công bố một văn kiện đặc biệt nào về Mầu nhiệm Thánh Thể, nhưng đã nêu lên nhiều khía cạnh khác nhau của Mầu nhiệm Thánh Thể trong toàn bộ các văn kiện, đặc biệt là trong Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium và Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium.
Về phần Đức Gioan Phaolô II, ngài đã đề cập đến Mầu nhiệm Thánh Thể qua Tông thư Dominicae cenae (Bàn tiệc của Chúa) ngày 24.2.1980.
Trong phần dẫn nhập, Đức Thánh Cha nói đến những hoa quả của việc canh tân Phụng vụ của Công Đồng Vaticanô II đem lại, như việc tham dự ý thức hơn, tích cực và hiệu năng hơn của các tín hữu vào Hy Tế Thánh Lễ. Mặt khác, ngài cũng nhắc tới như một hồng ân của Chúa là tại nhiều địa phương, việc tôn thờ Thánh Thể có một chỗ đứng quan trọng trong đời sống hằng ngày, việc các tín hữu tham dự sốt sắng vào những cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa trong dịp lễ trọng Mình Thánh Chúa.
Bên cạnh những ánh sáng này, lại không thiếu những bóng tối. Đức Thánh Cha kể ra : ở nhiều nơi, việc tôn thờ Thánh Thể gần như hoàn toàn bị lãng quên ; nhiều lạm dụng đã làm lu mờ đức tin ngay chính và giáo thuyết công giáo liên quan đến Bí tích này ; đôi khi có những cách hiểu rất giản lược về Mầu nhiệm Thánh Thể, ví dụ như người ta bỏ đi giá trị Hy tế của Thánh Thể, Thánh Thể chỉ có ý nghĩa và giá trị của một cuộc gặp gỡ thân hữu trong một bữa tiệc thông thường ; sự cần thiết của chức tư tế thừa tác đôi khi cũng bị lu mờ và tính chất bí tích của Thánh Thể đã bị giản lược duy vào hiệu năng loan báo. Từ đó, nơi này hay nơi khác, nhiều sáng kiến đại kết, dù rất thiện chí, đã rơi vào những việc thực hành Thánh Thể đi ngược lại với kỷ luật trong đó Giáo Hội diễn tả niềm tin của mình.
Đức Thánh Cha hy vọng rằng Thông điệp này sẽ góp phần đánh tan đi những bóng tối trên phương diện giáo thuyết và những cách thực hành không thể chấp nhận được.
a. Chương I : Thánh Thể là Mầu nhiệm Đức Tin
Bí tích Thánh Thể được thiết lập trong đêm Chúa Giêsu bị trao nộp (x. 1Cr 11,23). Bí tích Thánh Thể không chỉ là việc khơi gợi lại biến cố khổ nạn của Chúa Giêsu, nhưng còn hiện tại hoá biến cố ấy. Đó là Hy Tế thập giá được tiếp tục trong thời gian.
Trong chương này, dường như Đức Thánh Cha muốn nhắc lại giáo thuyết công giáo về Bí tích Thánh Thể, đặc biệt giáo thuyết của Công Đồng Triđentinô về việc Đức Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly ( DS 1637 ; 1727 ; 1740-1742 ; 1752), về Hy tế Thánh Lễ (DS 1741-1742 ; 1751), về sự hiện diện thực sự và bản thể (DS 1636-1637), về biến thể (DS 1642), về viễn tượng cánh chung của Thánh Thể (DS 1638).
Giáo Hội đón nhận Thánh Thể như một hồng ân tuyệt hảo, vì hồng ân đó chính là Chúa Giêsu. Thánh Thể là mầu nhiệm của lòng thương xót, dấu chỉ thực sự của một tình yêu vô biên, tình yêu “cho đến cùng” (x. Ga 13,1), một tình yêu không còn biên giới, một tình yêu “bị nộp vì anh em” và “đổ ra vì nhiều người”. (x. Lc 22,19-20).
“Thánh Lễ vừa là lễ tưởng niệm hy tế thập giá để lưu truyền muôn đời, vừa là bàn tiệc thánh để thông hiệp với Mình và Máu Chúa, cả hai gắn liền và không tách rời nhau” (GL 1382). Từ ngữ “Tưởng niệm” (Mémorial) bắt nguồn từ chữ Hy Lạp “anamnèsis”. Đây không phải là một hồi tưởng lại quá khứ đơn thuần, một kỷ niệm giống như kỷ niệm ngày sinh nhật hay ngày giỗ một người quá cố, nhưng đây là hiện tại hoá một biến cố trong quá khứ và biến cố này vẫn còn sức mạnh đối với cuộc sống hiện tại của chúng ta. Bí tích Thánh Thể hiện tại hoá hy tế thập giá, làm cho hy tế thập giá hiện diện cách bí tích trong mọi cộng đoàn hiến dâng nó, qua tay của thừa tác viên được hiến thánh.
“Hy tế của Chúa Kitô và hy tế Thánh Thể là một hy tế duy nhất” (GL 1367). Thánh Lễ hiện tại hoá hy tế thập giá, không thêm bớt gì mà cũng không nhân lên được. Hy Tế Thánh Thể hiện tại hoá chẳng những mầu nhiệm khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu, nhưng còn cả mầu nhiệm phục sinh nữa, trong đó hy tế đạt tới sự viên mãn của nó. Chính Chúa Kitô sống và phục sinh mới có thể trở nên “bánh sự sống” (Ga 6,35.48), “bánh hằng sống” (Ga 6,51).
Trong Thánh Lễ, việc hiện tại hoá hy tế thập giá được kiện toàn nhờ sự phục sinh của Chúa bao hàm một sự hiện diện đặc biệt, hiện diện bản thể. Ở đây, Đức Thánh Cha nhắc lại giáo thuyết “biến bản thể” (Transsubtanstiation) của Công Đồng Triđentinô. Thánh Thể thực sự là mầu nhiệm đức tin. Chúng ta chỉ có thể đón nhận bằng đức tin.
Từ Hy Tế Thánh Thể, Đức Thánh Cha chuyển sang Bữa Tiệc Thánh Thể. Hiệu quả cứu độ của hy tế được thực hiện sung mãn trong việc hiệp lễ, khi chúng ta rước Mình và Máu Chúa. Thánh Thể đích thực là một bữa tiệc, trong đó Chúa Kitô tự hiến làm của ăn. Qua việc thông hiệp vào Mình và Máu Ngài, Chúa Kitô cũng chuyển thông cho ta Thánh Thần của Ngài. Trong sách lễ Rôma, chủ tế cầu xin : “Khi chúng con được Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng, được đầy tràn Thánh Thần của Người, xin cho chúng con được trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô” (Kinh Tạ ơn III). Lời tung hô của giáo dân sau Truyền Phép diễn tả chiều kích cánh chung của việc cử hành Thánh Thể (x. 1Cr 11,26). Chiều kích cánh chung của Bí Tích Thánh Thể diễn tả và củng cố sự hiệp thông với Giáo Hội thiên quốc. Các kinh tạ ơn Đông phương cũng như La tinh đều diễn tả chiều kích này khi kính nhớ Đức Maria trọn đời đồng trinh, các thiên thần, các tông đồ, các thánh tử đạo hiển vinh và toàn thể các thánh. Đây là một khía cạnh của Bí tích Thánh Thể phải được chú ý khi cử hành hy tế Con Chiên, chúng ta cùng hợp với phụng vụ thiên quốc.
Một hệ luận khác rất có ý nghĩa của chiều kích cánh chung trong Bí tích Thánh Thể mà Đức Thánh Cha nhấn mạnh là sự thúc dẩy bước chân lữ hành của chúng ta trong lịch sử, làm nảy sinh một niềm hy vọng sống động cho mọi người hàng ngày tận tuỵ với nhiệm vụ của mình, kích thích tâm thức chúng ta về trách nhiệm đối với trái đất của chúng ta, dấn thân chu toàn những bổn phận công dân trần thế của mình.
Công bố cái chết của Chúa “cho tới khi Ngài lại đến” (1Cr 11,26) đòi buộc những ai tham dự vào tiệc Thánh Thể cương quyết dấn thân biến đổi cuộc sống, để một cách nào đó, cuộc sống ấy hoàn toàn trở thành “Thánh Thể”.
b. Chương II : Thánh Thể xây dựng Giáo Hội.
Công Đồng Vaticanô II đã nhắc lại rằng việc cử hành Thánh Thể nằm ở trung tâm tiến trình tăng trưởng của Giáo Hội (x. GH 3).
Đức Thánh Cha trở về với Giáo Hội sơ khai để cho thấy ảnh hưởng của Thánh Thể trên đời sống Giáo Hội như thế nào. Các thánh sử xác định rõ rằng, chính Nhóm Mười Hai là các tông đồ đã tụ họp quanh Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly (x. Mt 26,20 ; Mc 14,17 ; Lc 22,14). Đây chính là một điểm riêng biệt rất quan trọng, vì các tông đồ là những mầm giống của dân Israel mới và đồng thời là nguồn gốc của phẩm trật thánh.
Giáo Hội được xây dựng qua sự hiệp thông bí tích với Chúa Giêsu, Đấng hiến tế vì chúng ta. Khi đón nhận Mình và Máu Chúa, không những mỗi người chúng ta đón nhận Chúa Kitô, nhưng chính Chúa Kitô cũng đón nhận mỗi người chúng ta. Ngài thắt chặt tình bằng hữu với chúng ta (x. Ga 15,14) và chúng ta sống nhờ Ngài (x. Ga 5,57).
Khi hiệp nhất với Chúa Kitô, Dân của Giao ước mới không khép kín lại, nhưng trở thành “bí tích” cho nhân loại (x. GH 1), thành dấu hiệu và dụng cụ của ơn cứu độ được Chúa Kitô ban cho thành “ánh sáng thế gian” (x. Mt 5,13-16) để cứu rỗi mọi người.
Bí tích Thánh Thể vừa là nguồn suối, vừa là đỉnh cao của mọi công cuộc Phúc âm hoá, vì mục tiêu của nó là hiệp thông mọi người với Chúa Kitô và trong Ngài với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
Nhờ hiệp thông Thánh Thể, Giáo Hội cũng được vững chắc trong sự hiệp nhất của mình như là thân thể Chúa Kitô. Thánh Phaolô nói đến hiệu quả hiệp nhất này của việc tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể, khi ngài viết cho tín hữu Côrintô (x. 1Cr 10,16-17). Thánh Thể củng cố sự tháp nhập vào Chúa Kitô, mà Chúa Thánh Thần thực hiện trong Bí tích Thanh Tẩy (x. 1Cr 12,13.27). Chính Chúa Thánh Thần củng cố Giáo Hội nhờ việc thánh hoá các tín hữu bằng Thánh Thể.
Một trong những hoa quả tuyệt hảo nhất của Thánh Thể là Chúa Thánh Thần. Kinh tạ ơn III nói lên điều này : “Và khi chúng con được Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng, được đầy tràn Thánh Thần của Người”. Chúa Thánh Thần là tình yêu liên kết Cha và Con, nên Ngài sẽ làm cho cộng đoàn thánh thể trở thành thân thể giáo hội (corps ecclésial) của Chúa Kitô và hiệp nhất các chi thể trong thân thể này lại với nhau, bởi vì Ngài là tác giả của sự hiệp thông.
Nhờ thông hiệp vào Mình Chúa Kitô, Giáo Hội ý thức ngày càng sâu hơn căn tính của mình: “Giáo Hội ở trong Chúa Kitô một cách nào đó là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và dụng cụ của sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và sự hiệp nhất toàn thể nhân loại” (GH 1).
Theo kinh nghiệm hằng ngày, sức mạnh hiệp nhất của thân mình Chúa Kitô chống lại những mầm mống tan rã giữa con người với nhau đang bám sâu vào nhân loại do tội lỗi. Vì lẽ đó, Bí tích Thánh Thể, khi xây dựng Giáo Hội, cũng kiến tạo cộng đồng nhân loại.
Việc tôn sùng Thánh Thể ngoài Thánh Lễ mang một giá trị vô song trong đời sống Giáo Hội. Các mục tử có nhiệm vụ khuyến khích, bằng cả chứng tá cá nhân, việc tôn sùng Thánh Thể, đặc biệt là việc chầu Thánh Thể, cũng như việc tôn thờ Chúa Kitô hiện diện trong hình bánh rượu mà ta gọi là viếng Thánh Thể.
Đức Thánh Cha đã nói lên kinh nghiệm cá nhân của ngài về những lần cầu nguyện trước Thánh Thể và ngài nêu cao gương mẫu của các thánh, đặc biệt là thánh Anphongsô Ligôri.
c. Chương III : Đặc tính tông truyền của Bí tích Thánh Thể và của Giáo Hội
Khởi đi từ ba ý nghĩa của đặc tính tông truyền của Giáo Hội được Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo giải thích, Đức Thánh Cha suy nghĩ về đặc tính tông truyền của Bí tích Thánh Thể.
Nghĩa thứ nhất : “Giáo Hội đã và đang được xây dựng trên ‘nền tảng các tông đồ’ (x. Ep 2,20) là những chứng nhân đã được chính Chúa Kitô tuyển chọn và sai đi”(GL 857). Khởi đầu của Bí tích Thánh Thể cũng đã có các tông đồ. Chính trong sự tiếp nối hành động của các tông đồ, vâng theo lệnh truyền của Chúa mà Giáo Hội cử hành Bí tích Thánh Thể qua dòng thời gian.
Nghĩa thứ hai : “Giáo Hội gìn giữ và lưu truyền giáo huấn, kho tàng quý giá, những lời lành mạnh đã được nghe từ các tông đồ với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần đang ở trong Giáo Hội” (ibidem). Cũng theo ý nghĩa này, Bí tích Thánh Thể có tính tông truyền vì được cử hành đúng như niềm tin của các tông đồ. Để bảo vệ đức tin tông truyền trong Mầu nhiệm cao cả này, Huấn quyền đã xác định giáo thuyết về Bí tích Thánh Thể trong nhiều dịp khác nhau, ngay cả trong những điều liên hệ đến từ ngữ chính xác.
Nghĩa thứ ba : “Giáo Hội vẫn tiếp tục được các tông đồ dạy dỗ, thánh hoá và hướng dẫn cho đến ngày Chúa Kitô trở lại nhờ những vị kế nhiệm các ngài trong nhiệm vụ mục tử. Giám mục đoàn với sự giúp đỡ của các linh mục, hiệp thông với đấng kế vị thánh Phêrô là mục tử tối cao của Giáo Hội” (Ibidem). Kế vị các tông đồ trong sứ vụ mục tử đòi hỏi phải có Bí tích Truyền Chức, nghĩa là phải có việc phong chức giám mục liên tục và thành sự, bắt đầu từ những nguồn gốc đầu tiên. Bí tích Thánh Thể cũng diễn tả ý nghĩa này của đặc tính tông truyền vì “các tín hữu, nhờ chức tư tế vương giả cũng góp phần vào việc hiến dâng Thánh Thể theo vị trí của họ” (GH 10), nhưng chính linh mục được truyền chức mới “cử hành Hy tế Thánh Thể trong tư cách của Chúa Kitô và hiến dâng cho Chúa Cha nhân danh toàn thể tín hữu” (ibidem). Vì lẽ ấy, Sách Lễ Rôma đã quy định chỉ một mình linh mục đọc kinh nguyện Thánh Thể, trong khi đó giáo dân thinh lặng hiệp ý trong đức tin (QCTQ, ấn bản thứ ba, 147).
Đức Thánh Cha giải thích từ “in personna Christi” theo nghĩa mạnh hơn là “nhân danh” hay “thay thế” Chúa Kitô. In personna nghĩa là trong sự đồng nhất đặc biệt, mang tính bí tích “với vị Thượng tế của Giao Ước mới” (x. số 29).
Như vậy, trong chương này, Đức Thánh Cha rõ ràng đề cập đến thừa tác viên cử hành Thánh Thể. Để thực sự là một cộng đoàn Thánh Thể buộc phải có linh mục được truyền chức chủ tọa. Đàng khác, cộng đoàn không thể tự cung cấp cho mình thừa tác viên có chức thánh. Vị này là một hồng ân mà cộng đoàn lãnh nhận qua trung gian của giám mục, người kế nhiệm các tông đồ.
Từ đó, ngài đưa ra những hướng dẫn cụ thể :
1) Các tín hữu công giáo, tuy phải tôn trọng những xác tín tôn giáo của các anh em ly khai, phải tránh tham dự vào việc rước lễ trong những buổi cử hành của họ, để không dung dưỡng một sự hàm hồ nào về bản chất Thánh Thể.
2) Không thể dự kiến thay thế Thánh Lễ Chúa Nhật bằng những buổi suy tôn Lời Chúa đại kết, bằng những buổi hội họp cầu nguyện chung với những Kitô hữu của các cộng đoàn giáo hội ly khai từ thế kỷ XVI, hay bằng việc tham dự vào những buổi cử hành phụng vụ của họ.
3) Quyền “truyền phép” chỉ dành riêng cho giám mục và linh mục mà thôi. Điều này không làm giảm suy giá trị của các phần tử khác trong dân Chúa.
4) Nếu Thánh Thể là trung tâm và chóp đỉnh của đời sống Giáo Hội, nó cũng là như thế đối với tác vụ linh mục. Đức Thánh Cha nhắc lại lời khuyên của Công Đồng Vaticanô II đối với các linh mục là hãy cử hành Thánh Lễ hằng ngày.
5) Bí tích Thánh Thể là trung tâm đời sống và tác vụ linh mục, cũng là trung tâm mục vụ về ơn gọi linh mục.
Từ đó, Đức Thánh Cha cho thấy tình trạng đau đớn và bất thường của một cộng đoàn Kitô hữu, hội đủ mọi điều kiện của một giáo xứ về con số và sự đa dạng của giáo dân, nhưng lại thiếu vắng một linh mục để hướng dẫn. Khi một cộng đoàn nào thiếu vắng linh mục, người ta tìm cách giải quyết một cách thích đáng vấn đề đó, để có thể tiếp tục cử hành Phụng vụ ngày Chúa Nhật, nhưng đây chỉ là giải pháp tạm thời.
d. Chương IV : Thánh Thể và sự hiệp thông Giáo Hội
Bí tích Thánh Thể là Bí tích của hiệp thông. Một mặt, nó diễn tả chiều kích hiệp thông vô hình, chiều kích này nối kết chúng ta với Chúa Cha và chúng ta với nhau trong Chúa Kitô qua tác động của Chúa Thánh Thần. Mặt khác, trong chiều kích hữu hình, nó đòi hỏi sự hiệp thông trong giáo huấn của các tông đồ, trong các Bí tích và trong phẩm trật. Chỉ trong bối cảnh này mới có việc cử hành Bí tích Thánh Thể hợp pháp và sự tham dự đích thực vào Bí tích này. Hệ quả là có một đòi buộc nội tại đối với Bí tích Thánh Thể, đòi buộc phải được cử hành trong sự hiệp thông, và cụ thể hơn, trong sự toàn vẹn của những điều kiện đòi hỏi.
1) Sự hiệp thông vô hình đòi hỏi đời sống ân sủng và việc thực hành những nhân đức tin, cậy, mến. Trong viễn tượng này, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã xác định lại một cách đúng đắn rằng : “Ai biết mình đang mắc tội trọng, phải lãnh nhận Bí tích Hoà Giải trước khi đến rước lễ”(GL 1385). Đức Thánh Cha ước muốn rằng quy luật này vẫn còn và sẽ còn giá trị mãi trong Giáo Hội, quy luật mà Công Đồng Triđentinô đã áp dụng cụ thể lời khuyến cáo nghiêm khắc của thánh Phaolô (x. 1Cr 11,28). Từ đó, ngài cho thấy sự liên kết chặt chẽ giữa Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hoà Giải.
2) Sự hiệp thông hữu hình. Công Đồng Vaticanô II nói đến sự hiệp thông vào Giáo Hội cách trọn vẹn như sau : “Những người được gia nhập hoàn toàn vào cộng đoàn Giáo Hội là những ai lãnh nhận Thánh Thần của Đức Kitô, chấp nhận trọn vẹn tổ chức và tất cả những phương thế cứu rỗi đã được Giáo Hội thiết lập, và nhờ những mối dây liên hệ do việc tuyên xưng đức tin, các Bí tích, việc cai quản và sự hiệp thông Giáo Hội, họ liên kết với Đức Kitô trong tổ chức hữu hình mà Người điều khiển nhờ Đức Giáo Hoàng và các giám mục” (GH 14)
Bí tích Thánh Thể, vì là sự thể hiện bí tích cao quý nhất của sự hiệp thông trong Giáo Hội, đòi buộc phải được cử hành trong một bối cảnh tôn trọng những mối dây liên kết bên ngoài của sự hiệp thông. Cụ thể là không thể nào cho một người chưa rửa tội hay chối từ toàn bộ chân lý đức tin về Mầu nhiệm Thánh Thể được rước lễ.
Sự hiệp thông Giáo Hội trong cộng đồng Thánh Thể là sự hiệp thông với giám mục của mình và với Đức Giáo Hoàng Rôma. Thật vậy, giám mục là nguyên lý hữu hình và là nền tảng của sự hiệp nhất trong Giáo Hội địa phương của mình (GH 21). Cũng thế, Đức Giáo Hoàng là nguyên lý và là nền tảng hữu hình và vĩnh cửu của sự hiệp nhất giữa các giám mục cũng như toàn thể đông đảo các tín hữu (GH 23).
Như vậy, Bí tích Thánh Thể xây dựng Giáo Hội như là “cộng đoàn hiệp thông sự sống”, không phải một Giáo Hội mơ hồ, trừu tượng, ở ngoài lịch sử, ngoài kinh nghiệm sống của người Kitô hữu, nhưng là một Giáo Hội cụ thể, còn đang trên đường lữ hành, một Giáo Hội có cơ cấu và phẩm trật.
Bí tích Thánh Thể tạo sự hiệp thông và giáo dục sự hiệp thông. Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Côrintô chỉ cho họ thấy những chia rẽ giữa họ biểu lộ trong cộng đoàn tham dự Thánh Thể, đi ngược lại với điều họ cử hành là Bữa Ăn Tối của Chúa. Vì vậy, ngài kêu mời họ suy nghĩ về thực tại đích thực của Bí tích Thánh Thể để đưa họ trở về với tinh thần hiệp thông huynh đệ (x. 1Cr 11,17-34).
Sự cổ võ đặc biệt hữu hiện cho hiệp thông, đặc điểm của Bí tích Thánh Thể là một trong những lý do của tầm quan trọng Thánh Lễ Chúa Nhật. Ngày của Chúa cũng trở thành ngày của Giáo Hội.
Khi đề cập đến tương quan của Thánh Thể với nỗ lực đại kết, Đức Thánh Cha một đàng cảm tạ Ba Ngôi Thiên Chúa vì trong những thập niên vừa qua, đông đảo tín hữu khắp nơi trên thế giới đã khao khát sự hiệp nhất giữa tất cả các Kitô hữu với nhau, đàng khác đưa ra những hướng dẫn cụ thể :
- Không thể nào đồng tế cùng một Phụng vụ Thánh Thể khi chưa có được sự hiệp thông trọn vẹn, nghĩa là hiệp thông trong đức tin, hiệp thông trong các Bí tích và hiệp thông với phẩm trật.
- Nhưng đối với việc cho rước lễ thi lại khác : trong những hoàn cảnh đặc biệt có thể cho những người thuộc những Giáo Hội hay những cộng đoàn giáo hội không cùng hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội công giáo được rước lễ.
Đức Thánh Cha nhắc lại quan điểm của ngài trong thông điệp Ut unum sint, ngài viết : “Thật là một niềm vui khi các thừa tác viên công giáo, trong những trường hợp đặc biệt đã được xác định, có thể ban những Bí tích Thánh Thể, Hoà giải và Xức dầu bệnh nhân cho những Kitô hữu không cùng hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo, có ước muốn mãnh liệt được lãnh nhận, tự nguyện và cùng chia sẻ niềm tin mà Giáo Hội Công Giáo tuyên xưng trong các Bí tích này. Ngược lại, trong những trường hợp rõ rệt, và đối với những hoàn cảnh đặc biệt, những người công giáo có thể xin chịu các Bí tích này từ tay những thừa tác viên của những Giáo Hội mà trong đó các Bí tích này thành sự” (số 46).
Tuy nhiên, Đức Thánh Cha cũng nói rất rõ rằng chỉ cần chối một hay nhiều chân lý đức tin về các Bí tích này, trong số đó có chân lý liên quan đến sự cần thiết của chức tư tế thừa tác để cho các bí tích được thành sự, đủ làm cho việc lãnh nhận các Bí tích không còn hợp pháp, vì người xin lãnh nhận không hội đủ điều kiện cần thiết. Ngược lại, một tín hữu công giáo không thể xin rước lễ trong một cộng đoàn không có Bí tích Truyền Chức thành sự.
e. Chương V : Phẩm giá của việc cử hành Thánh Thể
Đức Thánh Cha bắt đầu chương này với trình thuật về việc thành lập Bí tích Thánh Thể trong Tin Mừng Nhất Lãm. Trình thuật cho ta thấy Chúa Giêsu thiết lập Bí tích vĩ đại này với vẻ vừa đơn giản vừa trang trọng. Có một đoạn, theo một nghĩa nào đó, được xem như một khúc dạo đầu. Đó là việc xức dầu tại Bêtania. Một người nữ mà thánh Gioan xác nhận là Maria, chị của Ladarô, đã đổ trên đầu Đức Giêsu một loại dầu thơm quý giá khiến các môn đệ bất bình, đặc biệt là Giuđa (x. Mt 26,8 ; Mc 14,4 ; Ga 11,4) như thể hành vi đó là một sự phí phạm không thể chịu nổi đối với người nghèo. Tuy nhiên Đức Giêsu lại nghĩ khác. Không cắt bỏ điều gì trong bổn phận bác ái của các môn đệ đối với người nghèo (x. Mt 26,11 ; Mc 14,7 ; Ga 12,8), Chúa Giêsu nghĩ đến biến cố sắp đến là cái chết và việc mai táng Ngài, vì Ngài nhìn thấy trong việc xức dầu cho Ngài hưởng trước cái danh dự mà thân xác Ngài vẫn xứng đáng ngay cả sau khi chết, bởi vì nó được liên kết chặt chẽ với mầu nhiệm của bản thân Ngài.
Trong Tin Mừng Nhất Lãm, trình thuật tiếp tục với việc Đức Giêsu truyền lệnh cho các môn đệ chuẩn bị kỹ lưỡng “căn phòng lớn” cần thiết cho bữa ăn vượt qua (x. Mt 14,15 ; Lc 22,12) và với trình thuật việc lập Bí tích Thánh Thể.
Từ việc đọc lại Tin Mừng, Đức Thánh Cha suy nghĩ về phẩm giá của việc cử hành Thánh Thể. Như người nữ xức dầu tại Bêtania, Giáo Hội không ngần ngại “phung phí” sử dụng những gì tốt đẹp nhất trong kho tàng của mình để nói lên sự thán phục và lòng tôn thờ của mình trước ân huệ vô bờ bến của Bí tích Thánh Thể. Cũng như các tông đồ đầu tiên được ủy thác lo chuẩn bị “căn phòng rộng lớn”, Giáo Hội cảm thấy được thúc đẩy cử hành Thánh Thể trong một bối cảnh xứng đáng với một Mầu Nhiệm vĩ đại như thế, qua các thế kỷ và trong sự tiếp nối của các nền văn hoá.
Thánh Thể là một bữa tiệc, nhưng nếu lối suy luận về “bữa tiệc” có làm khơi dậy một tinh thần gia đình đi nữa, Giáo Hội vẫn không bao giờ nhượng bộ trước cám dỗ tầm thường hoá sự “thân thiện gia đình” này đối với Chúa Giêsu và ‘bữa tiệc”vẫn luôn luôn là bữa tiệc hy tế. Bữa tiệc Thánh Thể vẫn thật sự là một bữa tiệc “thánh” trong đó những dấu chỉ đơn sơ ẩn chứa chiều sâu khôn dò sự thánh thiện của Thiên Chúa.
Dựa vào ý nghĩa cao siêu ấy của Mầu nhiệm, chúng ta hiểu rằng niềm tin của Giáo Hội vào Mầu nhiệm Thánh Thể được diễn tả trong lịch sử không chỉ bằng việc đòi hỏi một thái độ sùng kính nội tâm, mà còn bằng một chuỗi cách diễn tả bên ngoài nhằm gợi lên và làm nổi bật sự cao trọng của biến cố được cử hành. Từ đó nẩy sinh một tiến trình đưa dần đến việc ấn định một quy chế đặc biệt thành quy luật cho Phụng vụ Thánh Thể mà vẫn tôn trọng những truyền thống giáo hội khác nhau được thiết lập hợp pháp.
Trên nền tảng đó, một di sản nghệ thuật phong phú cũng đã được phát triển như kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, và đã tìm thấy một nguồn cảm hứng vô tận, cách trực tiếp hay gián tiếp từ Bí tích Thánh Thể.
Nếu Bí tích Thánh Thể đã hun đúc Giáo Hội, thì người ta cũng có thể nói rằng Bí tích Thánh Thể có ảnh hưởng quan trọng trên “văn hoá”, đặc biệt trong lãnh vực thẩm mỹ. Trong viễn tượng của một nghệ thuật muốn diễn tả ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể theo giáo huấn của Giáo Hội, Đức Thánh Cha đề ra những hướng đi cụ thể :
- Trước hết, cần phải chú tâm đến những quy định liên quan đến việc xây dựng và trang trí thánh đường. Không gian sáng tạo mà Giáo Hội luôn dành cho các nghệ sĩ rất rộng, như lịch sử đã cho thấy. Nhưng nghệ thuật thánh phải có đặc điểm là khả năng diễn tả cách phù hợp Mầu nhiệm được đón nhận trong đức tin viên mãn của Giáo Hội và theo những chỉ dẫn mục vụ đúng đắn do Bản quyền chuyên trách. Điều đó có giá trị cho những nghệ thuật tượng hình cũng như cho thánh nhạc.
- Đức Thánh Cha cũng nói đến hướng đi vừa lành mạnh vừa cần thiết của việc “hội nhập văn hoá” về lãnh vực nghệ thuật thánh và quy luật Phụng vụ. Qua nhiều chuyến công du mục vụ, ngài thấy rằng trong khi thích nghi với những điều kiện thay đổi của thời gian và không gian, Bí tích Thánh Thể không chỉ nuôi dưỡng các con người, mà cả các dân tộc nữa và nắn đúc nhiều nền văn hoá chịu ảnh hưởng của tinh thần Kitô giáo.
- Tuy nhiên, ngài cũng đưa ra một cảnh giác trong lãnh vực này. Công việc thích nghi ấy phải được thực hiện với ý thức liên tục về Mầu nhiệm khôn tả của Bí tích Thánh Thể. Người ta có thể làm cho mầu nhiệm này suy giảm hay tổn thương bằng những thử nghiệm hay thực hành không do Thẩm quyền chuyên trách của Giáo Hội kiểm nhận.
Từ những suy nghĩ trên, Đức Thánh Cha cho thấy trách nhiệm lớn lao trong cử hành Thánh Thể thuộc về các linh mục, vì các ngài có nhiệm vụ chủ tọa trong tư cách của Chúa Kitô (in personna Christi) bảo đảm chứng tá và phục vụ sự hiệp thông. Nhưng Đức Thánh Cha cũng đau lòng nhận thấy rằng nhất là từ những năm sau cuộc canh tân phụng vụ hậu Công Đồng, vì nhận thức sai lầm về sự sáng tạo và thích nghi, những lạm dụng lan tràn, và trở thành lý do đau khổ cho nhiều người. Một phản ứng nào đó chống lại “duy hình thức” đã thúc đẩy một số người, đặc biệt trong vùng nào đó, lầm tưởng rằng “những hình thức” được ấn định bởi truyền thống phụng vụ đáng kính của Giáo Hội và Huấn quyền là không bắt buộc, và đưa vào những sửa đổi không được phép và thường không phù hợp.
Về điều này, Đức Thánh Cha có những lời mạnh mẽ như sau : “Vì thế, tôi cảm thấy có nhiệm vụ phải lên tiếng một cách cương quyết để trong cử hành Thánh Thể, những quy luật phụng vụ được tuân giữ một cách trung thành. Những quy luật đó là một cách diễn tả cụ thể tính giáo hội đích thực của Bí tích Thánh Thể, đó là ý nghĩa sâu xa nhất của chúng. Phụng vụ không bao giờ là một sở hữu riêng tư của ai, kể cả chủ tế và cộng đoàn cử hành Mầu nhiệm đó […] Không ai được phép đánh giá thấp Mầu nhiệm được trao trong tay chúng ta, nó cao cả đến nỗi không ai có thể đối xử với nó theo ý mình, không tôn trọng tính cách linh thánh và chiều kích phổ quát của nó” (số 52)
f. Chương VI : Nơi trường học của Đức Maria, người nữ “Thánh Thể”
Nếu chúng ta muốn khám phá lại trong tất cả sự phong phú của Bí tích Thánh Thể, mối liên hệ thâm sâu nối kết Giáo Hội và Bí tích Thánh Thể, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta nhìn vào Đức Maria, là Mẹ và mẫu gương của Giáo Hội. Đức Maria có thể hướng dẫn chúng ta đến Bí tích cực thánh này, vì giữa Mẹ và Bí tích này có một mối liên hệ sâu xa.
Tin Mừng, thoạt nhìn qua, im lặng về vấn đề này. Trong trình thuật việc thiết lập Bí tích Thánh Thể, vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh, không ai nói đến Đức Maria. Trái lại ai cũng biết là Mẹ đã có mặt với các Tông Đồ, hiệp nhất “cùng một lòng trong lời cầu nguyện” (x. Cv 1,14) trong cộng đoàn tiên khởi được qui tụ sau khi Chúa lên trời, trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chắc chắn, không thể thiếu vắng sự hiện diện của Mẹ trong những cử hành Thánh Thể giữa các tín hữu của thế hệ đầu tiên rất chuyên cần “trong nghi lễ bẻ bánh” (Cv 2,42).
Nhưng khi vượt xa hơn việc Đức Maria tham dự vào bữa tiệc Thánh Thể, người ta có thể phỏng đoán cách gián tiếp mối liên hệ giữa Đức Maria và Bí tích Thánh Thể căn cứ vào thái độ nội tâm của Mẹ. Trong tất cả cuộc sống của Mẹ, Đức Maria là một phụ nữ “Thánh Thể”. Đức Thánh Cha chiêm ngắm người phụ nữ “Thánh Thể” này với ba hình ảnh được các sách Tin mừng phác họa:
Đức Maria, Trinh nữ tin tưởng
Nếu Bí tích Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin vượt xa lý trí chúng ta đến nỗi chúng ta chỉ còn phó thác hoàn toàn cho Lời Chúa mà thôi, thì không một ai ngoài Đức Maria có thể nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta trong tiến trình này. Khi chúng ta lập lại hành động của Chúa Kitô trong Bữa Tiệc Ly, khi vâng theo lệnh truyền của Ngài : “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,19), chúng ta đón nhận cùng một lúc lời Đức Maria mời gọi vâng phục Chúa không do dự : “Hãy làm những gì Ngài bảo” (Ga 2,5). Với sự ân cần từ mẫu mà Mẹ đã tỏ ra ở tiệc cưới Cana, Đức Maria hình như muốn nói với chúng ta : “Đừng do dự, hãy tin vào những lời của Con Mẹ, Ngài có thể biến nước thành rượu ngon, Ngài cũng có thể biến bánh và rượu trở nên thịt và máu Ngài, thông truyền cho các tín hữu, trong mầu nhiệm này, việc tưởng nhớ sống động cuộc Vượt Qua của Ngài để trở nên “bánh sự sống”.
Theo một nghĩa nào đó, Đức Maria đã sử dụng đức tin Thánh Thể của mình ngay trước khi Bí tích Thánh Thể được thiết lập, bởi vì Mẹ đã hiến dâng cung lòng trinh vẹn của Mẹ để Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể. Trong khi Bí tích Thánh Thể đưa về cuộc khổ nạn và phục sinh, thì Đức Maria cùng lúc vẫn tiếp nối với việc Nhập Thể. Lúc truyền tin, Đức Maria đã thụ thai Con Thiên Chúa trong chính thực tại thể lý thân xác và máu huyết, thực hiện trước trong Mẹ, những gì được thực hiện một cách bí tích, trong một mức độ nào đó, nơi mọi tín hữu được lãnh nhận dưới hình bánh rượu, Mình và Máu Chúa.
Như thế có một tương quan rất thâm sâu giữa tiếng fiat (xin vâng) của Đức Maria đáp lại lời thiên thần với tiếng Amen của người tín hữu khi lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Thiên Chúa đã đòi hỏi Đức Maria phải tin rằng Đấng mà Mẹ thụ thai “nhờ hoạt động của Thánh Thần” là “Con Thiên Chúa” (x. Lc 1,30-35). Tiếp nối đức tin của Đức Maria, Chúa cũng đòi hỏi chúng ta tin rằng, trong Mầu nhiệm Thánh Thể, cũng Chúa Giêsu đó, Con Thiên Chúa và Con của Đức Maria, hiện diện cách trọn vẹn gồm cả nhân tính lẫn thần tính của Ngài dưới hình bánh và rượu.
“Phúc thay kẻ đã tin” (Lc 1,45) : trong Mầu nhiệm Nhập Thể, Đức Maria cũng đã đi trước đức tin Thánh Thể của Giáo Hội. Khi đi thăm viếng bà Elisabét, Mẹ đã mang trong cung lòng Ngôi Lời làm người, Mẹ trở nên một “nhà tạm”, một cách nào đó – “nhà tạm” đầu tiên trong lịch sử - trong đó Con Thiên Chúa, chưa thấy được với mắt loài người, được bà Elisabét tôn thờ, như thể “chiếu tỏa” ánh sáng của Ngài qua ánh mắt và tiếng nói của Đức Maria.
Và cái nhìn say đắm của Đức Maria, chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Kitô vừa mới sinh ra và bồng ẵm Ngài trong vòng tay, phải chăng là mẫu gương tình yêu gợi hứng cho ta mỗi lần ta rước Chúa ?
Đức Maria, Trinh nữ hiến dâng
Trong suốt cuộc đời của Đức Maria bên cạnh Chúa Kitô, và không chỉ trên đồi Canvariô, ngài đã lấy chiều kích hy tế của Bí tích Thánh Thể làm của mình. Khi Mẹ đem trẻ Giêsu vào đền thờ Giêrusalem để “tiến dâng cho Thiên Chúa” (x. Lc 2,34-35), Mẹ đã nghe cụ già Simêon loan báo cho Mẹ rằng Trẻ này sẽ là một “dấu hiệu chia rẽ” và rằng một “lưỡi gươm” sẽ đâm thâu trái tim của mẹ (x. Lc 2,34-35). Như thế bi kịch của Người Con chịu đóng đinh đã được tiên báo, và trong cách thế nào đó, cảnh “stabat Mater” (Mẹ đứng đó) của Đức Trinh Nữ dưới chân Thánh Giá, đã được hình dung trước. Từng ngày, chuẩn bị lên đỉnh đồi Canvariô, Đức Maria đã sống một thứ “Thánh Thể đã có trước” nào đó, đó là một cách “hiệp lễ thiêng liêng” bằng ước muốn và hiến dâng. “Thánh Thể đã có trước” này sẽ được hoàn tất bằng sự hiệp nhất với Con Ngài trong cuộc khổ nạn. Điều đó sẽ được diễn đạt, sau Phục Sinh, qua sự tham dự của Mẹ vào việc cử hành Thánh Thể mà các tông đồ chủ sự để tưởng niệm cuộc Khổ Nạn của Chúa.
Đức Maria, Trinh nữ tạ ơn
Đức Maria hiện diện với Giáo Hội và là Mẹ của Giáo Hội, trong mỗi cử hành Bí tích Thánh Thể của chúng ta. Nếu Giáo Hội và Bí tích Thánh Thể làm thành một cặp song đôi không thể tách rời, thì giữa Đức Maria và Bí tích Thánh Thể cũng vậy. Chính vì thế việc kính nhớ Đức Maria trong cử hành Bí tích Thánh Thể được thi hành đồng loạt, từ thời xa xưa trong các Giáo Hội Đông Phương và Tây Phương.
Trong Bí tích Thánh Thể, Giáo Hội lấy tinh thần Đức Maria làm của mình, kết hiệp hoàn toàn với Chúa Kitô và với hy tế của Ngài. Đó là một chân lý mà người ta có thể đào sâu khi đọc lại kinh Magnificat (linh hồn tôi ngợi khen) trong viễn tượng Thánh Thể. Quả thật, như bài ca của Đức Maria, Bí Tích Thánh Thể trước hết là một lời ngợi khen và là một lời tạ ơn. Khi Đức Maria thốt lên : “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa và lòng trí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”, Chúa Giêsu đang ở trong cung lòng của Mẹ. Mẹ ngợi khen Chúa Cha “thay cho” Chúa Giêsu, nhưng Mẹ cũng ngợi khen Chúa Cha “trong” Chúa Giêsu và “cùng với” Chúa Giêsu. Đó chính là “thái độ Thánh Thể” đích thực.
Cùng một lúc, Đức Maria nhắc đến những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện trong lịch sử cứu độ theo như lời hứa với cha ông chúng ta (x. Lc 1,55), và Mẹ loan báo điều kỳ diệu vượt lên trên mọi kỳ công, việc Nhập Thể cứu chuộc. Sau cùng trong kinh Magnificat, cũng có cả việc hướng đến quang lâm của Bí tích Thánh Thể. Mỗi khi Con Thiên Chúa xuất hiện cho chúng ta trong sự “nghèo nàn” của những dấu chỉ bí tích, bánh và rượu, hạt giống của lịch sử mới, trong đó những kẻ quyền thế bị “lật đổ khỏi ngai vàng” và những người hèn mọn được “nâng cao” (x. Lc 1,52) đã được gieo trong thế gian. Đức Maria hát lên “trời mới” và “đất mới”, chúng được thực hiện trước trong Bí tích Thánh Thể. Nếu bài Magnificat diễn tả “đường lối thiêng liêng” của Đức Maria thì không có gì giúp chúng ta sống Mầu nhiệm Thánh Thể bằng linh đạo này. Bí tích Thánh Thể đã được trao tặng cho chúng ta, để toàn bộ cuộc sống chúng ta như cuộc sống của Đức Maria, trở nên một bài ca Magnificat.
Kết luận của Thông điệp
Đức Thánh Cha cảm nghiệm như một hồng ân sự kiện ngài hiến dâng cho Giáo Hội thông điệp về Bí tích Thánh Thể vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, trùng hợp với năm thứ hai mươi lăm ngài lãnh nhận nhiệm vụ kế vị thánh Phêrô. Trong niềm vui thân tình mãnh liệt, hiệp nhất với niềm tin của Giáo Hội, ngài đưa ra chứng từ đức tin của ngài vào Bí tích Thánh Thể (x. số 59).
Trong Tông Thư Novo millennio ineunte, Đức Thánh Cha nói rằng không cần phải vạch thêm một “chương trình mới” cho Giáo Hội nữa, bởi vì chương trình đã có sẵn rồi : chính là chương trình của mọi ngày, được rút ra từ Tin Mừng và Thánh Truyền sống động. Chương trình này có trung tâm là chính Chúa Kitô mà chúng ta phải hiểu biết, yêu mến, noi gương, để sống sự sống Ba Ngôi trong Ngài và cùng với Ngài biến đổi lịch sử cho đến khi hoàn tất trong thành Giêrusalem thiên quốc. Việc thực hiện chương trình của đà tiến đổi mới này trong đời sống Kitô hữu phải xuyên qua Bí tích Thánh Thể.
Từ đó, các nỗ lực dấn thân vào sự thánh thiện, các hoạt động nhằm hoàn thành sứ mạng của Giáo Hội, mọi cố gắng thực hiện các chương trình mục vụ, phải múc lấy nơi Mầu nhiệm Thánh Thể, sức mạnh cần thiết và phải hướng về đó như chóp đỉnh. Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta có Chúa Giêsu, chúng ta có hy tế cứu chuộc của Ngài, chúng ta có sự phục sinh của Ngài, chúng ta có hồng ân Thánh Thần, chúng ta có việc tôn thờ, sự vâng phục và tình yêu đối với Chúa Cha.
Mầu nhiệm Thánh Thể, - hy tế, hiện diện, bữa tiệc – không chấp nhận sự giảm thiểu cũng như sự thao túng nào ; nó phải được sống toàn vẹn, dù trong việc cử hành hay trong việc trò chuyện thân mật với Chúa Giêsu mà người ta đón nhận khi rước lễ, hay trong thời gian cầu nguyện và tôn thờ Thánh Thể ngoài thánh lễ.
Con đường mà Giáo Hội đang đi vào những năm đầu tiên này của thiên niên kỷ thứ ba cũng là con đường dấn thân đại kết mới. Những thập niên cuối cùng của thiên niên kỷ thứ hai, đạt được chóp đỉnh trong Đại Năm Thánh, đã thúc đẩy chúng ta vào hướng đó, khuyến khích tất cả những người đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy phải đáp lại lời cầu của Chúa Giêsu “Xin cho chúng nên một” (Ga 17,11). Một con đường như thế thì rất dài và đầy chướng ngại vượt hẳn sức con người ; nhưng chúng ta có Bí tích Thánh Thể.
Con đường dấn thân đại kết thúc đẩy chúng ta đi đến mục tiêu là chia sẻ toàn vẹn kho tàng quý giá của Mầu nhiệm Thánh Thể với tất cả anh em đã được liên kết với chúng ta trong cùng một Phép Rửa. Tuy nhiên, để đừng lãng phí kho tàng quí báu như thế, chúng ta phải tôn trọng những đòi buộc gắn liền với sự kiện : đây là bí tích của sự hiệp thông trong đức tin và trong sự kế nhiệm các tông đồ.
LM An-tôn Nguyễn Đức Khiết
(Tiếp theo - Chương 7: Cử hành Thánh Thể)