Đáp ca : Chúa là Đấng từ bi hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân.
1 Của vua Đa-vít.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!
2 Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
3 CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
4 Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
8 CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
10 Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
12 Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.
13 Như người cha chạnh lòng thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.
( Xem bài suy niệm CN VII TN năm A 19/02/2017)
Phụng vụ chúa nhật hôm nay chỉ đề nghị chúng ta tám câu của thánh vịnh 102, nhưng thật ra bài có 22 câu như số chữ cái Do Thái ngữ, là 22 chữ. Thì đây cũng là một bài thánh vịnh ABC như thường lệ, một bài thánh vịnh tạ ơn vì Giao Ước. Thật vậy, ông André Chouraqui nói rằng bài thánh vịnh này là một Te Deum của Thánh Kinh, một bài ca tạ ơn vì mọi lời chúc phúc dành cho tác giả (là dân tộc Ít-ra-en) được tràn ơn từ Thiên Chúa.
Đặc tính thứ hai của bài thánh vịnh này, là những đối chiếu cặp đôi. Mỗi câu gồm hai hàng đối nhau như tiếng vang cho nhau: lý tưởng là nên đọc thành hai bè từng mỗi hàng. Có lẽ bài được sáng tác cho hai bè, hát đối nhau. Kỹ thuật song song này, chúng ta thường gặp trong Thánh Kinh, trong những bài thánh thi, nhưng có khi cũng trong các bài văn xuôi. Đây là một kỹ thuật lặp đi lặp lại giúp cho dễ nhớ, rất tự nhiên trong một văn minh truyền khẩu, và nhất là rất gợi cảm. Nếu chăm sóc cách đọc kỹ càng để làm rõ nét hai hàng đối diện với nhau trong câu thơ, thi tính của bài thánh vịnh được làm nỗi bật lên một cách tuyệt vời.
Mặt khác, việc lặp lại một ý, lần lượt dưới hai hình thức khác nhau, dĩ nhiên là để làm rõ một ý tưởng, và như thế đối với chúng ta còn làm cho chúng ta hiểu một vài từ ngữ Thánh Kinh. Ví dụ như câu đầu đề nghị chúng ta hai vế song song với nhau. Lần đầu câu này đối « Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! » Đối lần đầu: « Chúc tụng CHÚA đi… chúc tụng Thánh Danh! » Lần thứ hai thay vì lặp lại Chúa, thì bài nói Thánh Danh: trong Thánh Kinh, TÊN là chính nhân vật. Cách đối thứ hai, cũng trong câu này: « Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! » Chữ hồn ở đây không có nghĩa chúng ta thường hiểu. Theo tư tưởng thông thái Hy lạp, chúng ta có khuynh hướng biểu hiện con người bằng sự kết hợp hai yếu tố khác nhau, nhưng khác biệt nhau, linh hồn và thể xác. Nhưng những tiến bộ về khoa học nhân văn của thế kỷ thứ XXI xác định rằng thuyết nhị nguyên ấy không phù hợp với thực tế. Chính trong tâm thức Thánh Kinh có một khái niệm nhất quán hơn, và khi nói « linh hồn » đó là toàn nhân vật: « Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! »
Một thí dụ khác về cách đối song song vài câu sau đọan này, giúp chúng ta hiểu một từ ngữ khá khó đối với chúng ta, đó là cụm chữ « kính sợ Chúa », chúng ta thường gặp từ ngữ « kính sợ Chúa » này trong Thánh Kinh, và chúng ta có thành kiến không có cảm tình cho lắm. Nhưng ở đây chúng ta khám phá ra cách đối chữ thú vị: « 13 Như người cha chạnh lòng thương con cái, CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn. » có nghĩa là sự kính sợ Thiên Chúa có bất cứ nghĩa gì nhưng nhất quyết không phải khiếp sợ; đó là thái độ giữa cha con.
Tôi thường nói đến tính cách sư phạm trong Thánh Kinh đối với dân Ngài: thì ở đây Chúa cũng dùng phương pháp sư phạm ấy một cách chậm rãi, nhẫn nại để hoán cải dần từ sự sợ hãi đến tâm tình Cha con. Ở đây tôi muốn nói, đứng trước một Thiên Chúa thánh thiêng, con người tự nhiên cảm thấy sợ hãi, phải cần đến một sự hoán cải người tín hữu để, tuy không đánh mất lòng kính trọng đối với Đấng Thật Khác Biệt, chúng ta học dần đối với Ngài bằng tâm tình Phụ tử. Theo Kinh Thánh, kính sợ Thiên Chúa là lòng sợ hãi được hoán cải thành tình Phụ tử: dĩ nhiên chương trình sư phạm ấy chưa hoàn tất. Thái độ chúng ta đối với Chúa, mối quan hệ chúng ta đối với Ngài cần được hoán cải liên tục. « Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. » (Mt 18, 3)… những trẻ nhỏ biết rằng cha mình chỉ có tình thương dịu hiền. Sự kính sợ ấy vừa có sự trìu mến đáp trả, biết ơn, và quan tâm vâng lời vì người con biết rằng các giới răn của cha chỉ phát xuất từ tình yêu: giống như đứa trẻ tránh xa lửa vì được cha báo trước cho nó để khỏi bị bỏng … Hơn nữa nếu viết theo nghĩa đen thì câu ấy sẽ như sau: « 13 Như người cha chạnh lòng thương con cái, CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ giữ Giao Ước, kẻ kính tôn. »
Không phải ngẫu nhiên bài thánh vịnh đề cập đến sự kính sợ Thiên Chúa lại trích một câu bất hủ của sách Xuất hành: « Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín » (Xh 34, 6). Câu này rất nổi tiếng trong Thánh Kinh, vì đây là một mặc khải về chính Mình cho ông Mô-sê trong sa mạc Si-nai. Câu này thường được đọc trong các thánh vịnh, vì vừa là Tên Thiên Chúa và vừa để nhắc lại Giao Ước, nhất là các thánh vịnh tạ ơn, trước hết tất cả các thánh vịnh này đều là những lời ngạc nhiên thán phục trước Giao Ước Thiên Chúa.
Các câu được chọn hôm nay nhấn mạnh đến những biểu hiện của tình yêu thắm thiết của Thiên Chúa: sự tha thứ. Một Thiên Chúa chậm giận, Ít-ra-en từng trải nghiệm suốt lịch sử của họ: từ khi vượt qua Si-nai, ông Mô-sê đã phải từng nói với họ: « Anh (em) phải nhớ, đừng quên rằng anh (em) đã chọc giận ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), trong sa mạc. Từ ngày anh (em) ra khỏi đất Ai-cập cho đến khi tới đây, anh em đã phản nghịch chống lại ĐỨC CHÚA » (Đnl 9, 7). Suốt dòng lịch sử Giao Ước là hiện trường của sự tha thứ của Thiên Chúa cho dân Ngài mỗi lần suy thoái: « … Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. 12 Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. » (c4.10.12)
Tình yêu trìu mến chúng ta cần nhất để trổi dậy chính là được quên đi tội lỗi của chúng ta, những lúc chúng ta sa ngã. Chúa Giê-su chỉ đưa lên hình ảnh qua bài dụ ngôn người cha và đứa con hoang đàng. Nhưng xác tín vào sự tha thứ của Chúa không xúi dục chúng ta khoan dung thái quá với chính mình, trái lại: trung tín thật sự với tình yêu có nhiều đòi hỏi cho bản thân.
***
Tác giả: bà Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: http://www.eglise.catholique.fr/
Dịch giả: Ernest Marco Huỳnh Lương