BÀI ĐỌC 1 (Is 35, 1-6a.10)
"Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ chúng tôi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
1 Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy,
vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông,
2 hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ,
và hân hoan múa nhảy reo hò.
Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng,
vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron.
Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của ĐỨC CHÚA,
và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta.
3 Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ,
cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng.
4 Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ!
Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục,
ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.
Chính Người sẽ đến cứu anh em."
5 Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.
6 Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
10 Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về,
tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo,
mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu.
Họ sẽ được hớn hở tươi cười,
đau khổ và khóc than sẽ biến mất.
Câu trung tâm của bài này : «4 Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.», có nghĩa, sự báo phục của Chúa là cứu độ chúng ta. Có lẽ nên viết: «ngày báo phục,… Thiên Chúa: Chính Người sẽ đến cứu anh em» hay rõ hơn nữa: «sự báo phục của Thiên Chúa: Chính Người sẽ đến cứu anh em».
Trọn bài đọc hôm nay ta thấy toàn là những lời hứa: lời hứa chữa lành, chữa lành cho người mù, kẻ câm điếc, người què… «5 Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. 6 Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.» Nhất là, hứa cho người lưu đày được trở về xứ: «10 Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về, tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất». Thật vậy, khi I-sa-i-a nói lên những lời này, dân It-ra-en còn đang lưu đày ở Ba-by-lon, sau khi trải qua cuộc bách hại tàn khốc, trong thời gian thành Giê-ru-sa-lem bị vây hãm do quân đội của Na-bu-cô-đô-nô-so. Năm mươi năm lưu đày: quá đủ để mất hết can đảm; không phải ngẫu nhiên I-sa-i-a nói: «3 Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. 4 Hãy nói với những kẻ nhát gan: Can đảm lên, đừng sợ!»
Năm mươi năm ước mơ trở về xứ, không ai còn dám tin nữa. Và bỗng nhiên vị tiên tri nói: «Sắp đến rồi». Muốn trở về xứ, con đường thẳng nhất từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem phải qua sa mạc A-ra-bi-a. Nhưng hành trình vượt qua sa-mạc, được I-sa-i-a miêu tả như thật sự một chuyến đi vinh thắng… Hơn thế nữa, một cuộc lữ hành vĩ đại: vùng hoang địa trở thành hoan hỉ, vùng đất khô cằn nay mừng vui, tiếng Do Thái còn có nghĩa «hớn hở mừng vui»… Các thánh vịnh không dùng chữ gì khác hơn, để miêu tả lời nguyện trong những cuộc hành hương uy nghi như thế. Sa mạc trở nên đẹp… Đẹp như rừng núi Li-băng, như các đồi non xứ Các-men, như cánh đồng ven bờ sông Xa-rôn... Ngày trở về, như cuộc hành hương tạ ơn của những người thoát nạn. Câu sau đây «10 Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về» nên được hiểu theo hai chiều kích: trước hết họ trở về xứ, nhưng sâu xa hơn, họ quay trở về với Thiên Chúa. Sự trở về này là sự hòa giải với Thiên Chúa, trở về với Giao Ước: chữ dùng ở đây là «hoán cải», «quay đầu ngược lại».
Và tất cả những điều ấy là công trình của Chúa: «Chính Người sẽ đến cứu anh em… 10 Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về». Câu số 10, I-sa-i-a ngụ ý nói đến việc «giải thoát» (chuộc) theo lề luật thời ấy: khi một người mang nợ phải bán nhà bán đất để trả nợ, người bà con gần nhất trả thay cho chủ nợ và giữ sở hữu ấy (Lv 25, 25). Nếu một người lâm cảnh túng thiếu mà phải bán thân mình vì không có của cải; cũng như thế, người bà con gần nhất có thể trả thay để giải thoát, thời ấy gọi là «nhận trách nhiệm». Vì thế chữ «chuộc» trong Thánh Kinh có nghĩa là «giải thoát». Chữ «cứu độ» có nghĩa là «giải thoát người bà con gần nhất». Trong nghĩa ấy, Chúa nói nhiều lần: «Ta lãnh trách nhiệm cho anh em». Trong trường hợp sát nhân, người bà con gần nạn nhân nhất có bổn phận báo thù (Ds 35, 12). Cũng trong nghĩa ấy, Thiên Chúa dùng trong câu thứ 4 chữ: «báo phục», điều này nói lên Thiên Chúa là «người bà con» gần nhất Ít-ra-en, Ngài sẽ là kẻ báo phục, tức là Ngài không thể không quan tâm; mặt khác, Ngài sẽ bảo vệ quyền lợi dân Ngài chống lại ai muốn làm hại, Ngài sẽ can thiệp để giải thoát.
Thật ra đây là ý nghĩa rất tích cực của chữ «báo phục». Đối với người hiểu Thánh Kinh, rõ ràng Thiên Chúa không báo thù cho chúng ta, Ngài không chống lại ai, nhưng chống lại sự dữ hoành hành nơi ta, kéo chúng ta xuống vực thẳm. Báo phục của Chúa là từ bỏ sự dữ, như tiên tri I-sa-i-a nói: «5 Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. 6 Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.»
Nhưng cũng phải nói, chúng ta không phải lúc nào cũng nghĩ như thế! Bài của ngôn sứ I-sa-i-a đến rất trễ trong Thánh Kinh; phải một thời gian dài trong lịch sử mới có được như thế. Lúc khởi đầu, dân chúng tưởng tượng một Thiên Chúa giống hình ảnh con người, một Thiên Chúa báo thù như loài người. Dần dần, với sự Mạc Khải tiệm tiến của Thiên Chúa, nhờ lời rao giảng của các ngôn sứ, con người mới bắt đầu khám phá thế nào là Thiên Chúa, chứ không như một Thiên Chúa từ óc tưởng tượng mà ra. Vì thế chữ «báo phục» vẫn còn đó, nhưng ý nghĩa đã thay đổi hẳn. Chúng ta đã chứng kiến nhiều lần, sự thay đổi hoàn toàn ý nghĩa một từ ngữ trong Thánh Kinh; ví dụ như chữ «của lễ hiến tế» hay «kính sợ Thiên Chúa».
Phải qua giai đoạn nhiều thế kỷ, mới có thể khám phá ra dung nhan thật của Thiên Chúa, một Thiên Chúa khác biệt chúng ta: «8 Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta» (Is 55, 8) - một Thiên Chúa chỉ là tình yêu và lòng thương xót mọi người, không trừ một ai, ngay cả người dữ - một Thiên Chúa: «chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống» (Ed 33, 11). Dần dần câu: «sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em», thật sự có ý nói: «Thiên Chúa là người thân thuộc gần nhất anh em, Ngài yêu anh em hơn mọi thụ tạo trên thế gian; và dù cho dù anh em có bị nhục mạ thế nào đi nữa, về thể xác cũng như tinh thần, Thiên Chúa sẽ đến giải thoát anh em, để nâng anh em lên.
***
THÁNH VỊNH (Tv 145, 7-10)
"Lạy Chúa, xin đến cứu độ chúng con."
7 xử công minh cho người bị áp bức,
ban lương thực cho kẻ đói ăn.
CHÚA giải phóng những ai tù tội,
8 CHÚA mở mắt cho kẻ mù loà.
CHÚA cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên,
CHÚA yêu chuộng những người công chính.
9 CHÚA phù trợ những khách ngoại kiều,
Người nâng đỡ cô nhi quả phụ,
nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.
10 CHÚA nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở,
Xi-on hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.
Bài Thánh vịnh hôm nay gồm mười câu, nhưng chúng ta chỉ đọc bốn câu, nên không có hai chữ Alleluia đầu và cuối bài. Một bài được đóng khung bằng hai chữ Alleluia - có nghĩa là ngợi khen Thiên Chúa – đây, tức là một bài thánh vịnh ngợi khen và tạ ơn. Bài này được sáng tác lúc trở về từ nơi lưu đày Ba-by-lon, có thể là để dâng hiến cho Đền thờ Giê-ru-sa-lem vừa được trùng tu.
Đền thờ bị phá huỷ năm 587 trước CN do quân của vua Ba-by-lon, Na-bu-cô-đô-nô-so. Năm mươi năm sau (538 trước CN), sau khi vua Ba-tư là Ky-rô thắng Ba-by-lon, cho dân Do Thái lưu đày ở Ba-by-lon trở về xứ, và xây lại Đền thờ. Chúng ta cũng biết điều này không dễ dàng gì, nhiều sự chia rẽ trầm trọng xảy ra giữa những người mới về đầy nhiệt huyết, và những kẻ đã ở lại và sinh sống lập nghiệp ở đấy. Dù sao, phải nhờ nhiều nỗ lực và kiên trì của các ngôn sứ Khác-gai và Da-ca-ri-a, các công trình xây dựng mới có thể hoàn tất: tất cả trải dài từ năm 520 đến năm 515, dưới triều đại của Đa-ri-ô. Ngôi Đền mới xây lại, được dâng hiến trong hoan lạc và sốt sắng. Sách Ét-ra kể lại: «16 Con cái Ít-ra-en, các tư tế, các thầy Lê-vi và những người lưu đày trở về, hân hoan cử hành lễ khánh thành Nhà Thiên Chúa» (Er 6, 16).
Bài Thánh vịnh này đượm đầy niềm vui ngày trở về; một lần nữa, Thiên Chúa chứng minh lòng trung tín với Giao Ước của Ngài. Như trong quá khứ, thời Xuất Hành, cuộc thoát khỏi Ai-cập, và lần này rời khỏi Ba-by-lon, Chúa nâng cao dân Ngài lên, Chúa đã báo thù, theo nghĩa của ngôn sứ I-sa-i-a. Khi Ít-ra-en đọc lại lịch sử mình, họ có thể minh chứng rằng Thiên Chúa luôn luôn đồng hành suốt đoạn đường dài đấu tranh dành tự do của họ: «7 xử công minh cho người bị áp bức,… CHÚA giải phóng những ai tù tội». Lúc đi trong sa mạc, thời Xuất Hành, Chúa gửi Ma-na và chim cút từ trời xuống làm thức ăn: «ban lương thực cho kẻ đói ăn». Và cứ như thế, dần dần họ được mặc khải một Thiên Chúa, triệt để giải phóng những người mất tự do, chữa lành những người mù lòa, nâng cao những kẻ bé mọn bất cứ lãnh vực nào.
Đây không phải một tư tưởng bỗng nhiên được chấp nhận về Đấng Tạo Dựng vũ trụ; phải cả một sự mặc khải của Thánh Kinh, để mọi người nhận ra dung nhan kỳ lạ ấy của Thiên Chúa. Đây là vinh dự và niềm tự hào dân tộc Ít-ra-en, được mặc khải cho nhân loại một Thiên Chúa tình yêu và giàu lòng thương xót. Lòng thương xót có nghĩa là ruột gan rung động trước khổ đau. Các bạn hẳn còn nhớ câu tuyệt vời trong sách Huấn ca chúa nhật thứ XXX vừa qua: «15Nước mắt quả phụ lại không giàn giụa trên gò má (của Chúa)» (Hc 35, 15). Bài Thánh vịnh chúng ta hôm nay không nói gì khác hơn: «Người nâng đỡ cô nhi quả phụ». Để đáp lại, dân chúng được mời gọi bắt chước Thiên Chúa, ăn ở với lòng từ bi, thương xót những kẻ bị áp bức bất cứ từ đâu đến. Các bạn hẳn biết, để chắc chắn dân chúng dần dần tôn trọng lòng thương xót của Chúa, Lề Luật Ít-ra-en có nhiều điều khoảng bảo vệ cô nhi quả phụ và người ngoại kiều. Còn các ngôn sứ, các ngài đánh giá lòng trung tín Ít-ra-en với Giao Ước qua các tiêu chuẩn ấy.
Dần dần đọc bài hôm nay với một mức độ khác, chúng ta thấy rằng dân tộc này một khi sống trong Giao Ước với Thiên Chúa, họ khám phá rằng Chúa hoán cải họ từ nội tâm: «ban lương thực cho kẻ đói ăn», cơm bánh ăn, vật chất; vâng… nhưng trong lòng mỗi chúng ta có cơn đói sâu xa hơn. Cho những kẻ đói ấy, Chúa ban Bánh hằng sống là Lời Ngài… «8 CHÚA mở mắt cho kẻ mù loà». Có những loại mù loà phương diện khác, trầm trọng hơn, và vĩnh viễn. Đối với những mù lòa này Chúa cũng mở mắt họ «CHÚA giải phóng những ai tù tội», có những xiềng xích khác với nhà tù, loại xiềng hận thù, kiêu căng, ganh tị… Và người tín hữu có thể minh chứng rằng, Chúa giải thoát dần dần khỏi trái tim bằng đá của họ.
Bây giờ chúng ta hiểu vì sao bài Thánh Vịnh được đóng khung bằng hai chữ Alleluia trước và cuối bài. Chúng ta còn nhớ ý nghĩ của truyền thống Do Thái gắn bó với chữ Alleluia này: «Thiên Chúa đã đem chúng ta từ kiếp lưu đày về với tự do, từ u buồn đến niềm vui, từ tang tóc đến hoan lạc, từ bóng tối đến ánh sáng chiếu lòa, từ nô lệ đến cứu độ. Vì thế hãy hát lên Alleluia»
Dĩ nhiên những Ki-tô hữu hát bài thánh vịnh này nghĩ đến Chúa Giê-su Ki-tô: chẳng những Ngài nuôi dưỡng người đương thời với Ngài bằng bánh; nhưng từ nay, Ngài ban cho mỗi thế hệ được nhận phép Rửa tội, bánh là Thánh Thể Ngài. Chính Chúa cũng đã khẳng định: «Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống» (Ga 8, 12). Cuối cùng, nơi Ngài, nhân loại có thể tiếp nhận hoàn toàn tự do và sự sống: sự phục sinh của Ngài là bằng chứng rằng, sự chết thể xác không thể xiềng xích những tín hũu đã nhận phép Rửa Tội: «CHÚA giải phóng những ai tù tội».
Điều lưu ý cuối cùng về bài thánh vịnh này: Thánh Kinh quả quyết rằng, chúng ta được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Có lúc chúng ta tự hỏi giống ở chỗ nào! Chúng ta tìm thấy nơi đây một lời đáp và một điều khích lệ: lời đáp, đó là mỗi khi chúng ta can thiệp cho một người không may mắn, bất cứ vì lý do gì - mù loà, câm hay điếc, tù tội hay người tha hương - lúc ấy chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa. Điều khích lệ là: mỗi lần chúng ta làm một việc gì cho người bé mọn hơn ta, lúc ấy thôi thúc ta để ngày của Triều Đại Thiên Chúa đến gần hơn… Một ngày nọ, có một tham dự viên lớp giáo lý lần đầu khám phá phép lạ Chúa hóa ra nhiều bánh, hỏi giáo lý viên: tại sao ngày nay Chúa không làm cho bao nhiêu người đói trên thế giới? Sau vài phút thịnh lặng người ấy chậm rãi trả lời: «Có lẽ Chúa chờ chúng ta để làm».
***
Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions
Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng.