Lời Chúa CN

TÌM HIỂU CỰU ƯỚC CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN NĂM A - 16/02/2020

BÀI ĐỌC 1 (Hc 15, 15-20)

 

"Người không truyền dạy cho một ai làm điều ác"

 

Trích sách Huấn Ca. 

 

15 Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn
mà trung tín làm điều đẹp ý Người.

16 Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước,
con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy.

17 Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử,
ai thích gì, sẽ được cái đó.

18 Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao,
Người mạnh mẽ uy quyền và trông thấy tất cả.

19 Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người,
và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện.

20 Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội.

 

Hôm nay, sách Huấn Ca đề nghị chúng ta suy nghĩ về sự tự do con người. Có ba điểm: điểm thứ nhất, sự dữ ở ngoài con người; điểm thứ hai, con người tự do, tự do chọn lựa sự lành hay sự dữ; điểm thứ ba, chọn sự lành là chọn hạnh phúc.

Điều thứ nhất, sự dữ ở ngoài con người. Nói như thế có nghĩa, sự dữ không ở trong bản thể chúng ta, đây là một tin vui rồi; vì nếu sự dữ thuộc về bản thể chúng ta, thì không có cơ may nào chúng ta được cứu độ, vì chúng ta không thể nào cởi bỏ được. Đó là quan niệm của dân Ba-by-lon. Trái ngược lại, Thánh Kinh rất lạc quan, quả quyết rằng sự dữ ở ngoài con người. Không phải Thiên Chúa tạo nên sự dữ, mà cũng không phải Ngài đưa đến cho ta; Ngài không chịu trách nhiệm về những điều dữ chúng ta phạm. Đó là ý nghĩa câu cuối chúng ta vừa đọc: «Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội». Vài câu trước bài này, Sách Huấn Ca chép: “11 Con đừng nói: "Tại Đức Chúa mà tôi phạm tội… 12 Đừng nói: Chính Người làm tôi lầm đường lạc lối “.

Nếu Thiên Chúa dựng nên A-đam, thành một thọ tạo có lẫn lộn hai phần, phần tốt và phần xấu, như người Ba-by-on tưởng tượng, thì cái dữ hệ tại nơi bản thể chúng ta. Thế nhưng, Chúa là tình yêu, sự dữ hoàn toàn xa lạ với Ngài. Sở dĩ có bài tường thuật về A-đam và E-và trong sách Sáng Thế, chính là để hiểu rằng, sự dữ ở ngoài con người vì nó đến từ con rắn. Sự dữ tràn lan khắp thế gian, một khi con người bắt đầu ngờ vực Thiên Chúa. Chúng ta tìm thấy sự khẳng định ấy trong thư Thánh Gia-cô-bê: «Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: "Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ", vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai» (Gc 1, 13-17). Nói cách khác, Thiên Chúa hoàn toàn xa lạ với sự dữ, Ngài không thể xúi dục lỗi phạm. Và thánh Gia-cô- tiếp: «Nhưng mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà bắt».

Lời khẳng định thứ hai trong bài: đó là con người tự do, tự do chọn lựa sự dữ cũng như sự lành. Sự xác quyết ấy được dân Ít-ra-en lãnh hội từ từ, mặc dù, một lần nữa, Thánh Kinh dứt khoát: Chúa sanh ra con người tự do. Muốn cho sự xác quyết này được  khai triển  ở Ít-ra-en, thì dân tộc này phải qua trải nghiệm hành động cứu độ của Thiên Chúa; trong mỗi giai đoạn lịch sử của họ, bắt đầu bằng cuộc giải thoát khỏi Ai-cập. Tất cả đức tin của Ít-ra-en phát sinh từ trải nghiệm lịch sử của họ: Chúa là đấng cứu độ. Thế rồi, từng chút, từng chút, mọi người hiểu những gì họ tin ngày nay, từ khi mới được tạo dựng đã là thế. Từ đó, được suy diễn Chúa tạo ra con người tự do.

Rồi, chúng ta cũng phải học, tìm cách dung hoà hai xác tín của Thánh Kinh: đó là Thiên Chúa toàn năng, thế nhưng, trước mặt Ngài con người được tự do. Và, chính vì con người tự do chọn lựa mới có tội lỗi; ngay khái niệm tội lỗi giả thiết phải có tự do. Nếu chúng ta không có tự do, những sai phạm chúng ta, không thể gọi là tội lỗi. Có lẽ, muốn đi thêm sâu vào bí nhiệm ấy, chúng ta nên nhớ rằng quyền năng của Chúa là tình yêu. Chúng ta biết rằng, tình yêu đích thực là muốn cho kẻ khác tự do.

Để dìu dắt con người trong mọi chọn lựa, Chúa đã ban cho lề luật. Lẽ ra rất giản dị như thế. Và sách Đệ Nhị Luật nhấn mạnh rằng: «11 Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh (em) hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh (em).12 Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh (em) phải nói: "Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?13 Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển, khiến anh (em) phải nói: "Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?14 Thật vậy, lời đó ở rất gần anh (em), ngay trong miệng, trong lòng anh (em), để anh (em) đem ra thực hành.» (Đnl 30, 11-14).

Điểm thứ ba của sách Huấn Ca hôm nay : chọn lựa sự lành là chọn lựa hạnh phúc. Xin trở về với bài: «Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó… Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy».Nói cách khác, chính lúc con người tín trung với Thiên Chúa là lúc tìm được hạnh phúc thật. Xa cách Ngài,  không sớm thì muộn, sẽ gặt lấy khổ đau cho bản thân. Có thể nói một cách trừu tượng, con người luôn luôn gặp phải những ngã ba đường, trước mặt có hai hướng, (Thánh Kinh gọi là hai «con đưòng»). Một con đường dẫn đến ánh sáng, niềm vui và sự sống; phúc cho ai đi trên con đường ấy. Đường kia là con đường của bóng đêm, và cuối cùng, chỉ đem lại sầu khổ và sự chết; vô phúc cho ai dấn thân vào con đường ấy. Đến đây, chúng ta không thể không nghĩ đến sự sa ngã của A-đam và E-và. Chọn lựa sai đã dẫn họ vào con đường xấu.

Đề tài hai con đường, rất thường được triển khai trong Thánh Kinh; đặc biệt trong sách Đệ-Nhị-Luật: «15 Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh (em) chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ. 16 Hôm nay tôi truyền cho anh (em) phải yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đi theo đường lối của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh (em) được sống, được thêm đông đúc, và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc cho anh (em) trong miền đất anh (em) sắp vào chiếm hữu… nghĩa là hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), nghe tiếng Người và gắn bó với Người, vì như thế anh (em) sẽ được sống, sống lâu mà ở lại trên đất ĐỨC CHÚA» (Đnl 30, 15-20). Chúng ta không bao giờ vĩnh viễn bị tù hãm, ngay khi chọn lựa sai đường: vì thế, chúng ta mới gọi là đấng cứu độ, có nghĩa là người giải thoát. Sách Huấn Ca nói rằng: «Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn mà trung tín làm điều đẹp ý Người», những kẻ được «Rửa Tội» như chúng ta, có thể thêm «nhờ quyền lực Chúa Giê-su Ki-tô».

***

 

THÁNH VỊNH (Tv 118, 1-5, 17-18,33-34)

 

"Phước đức những ai tiến thân trong pháp luật của Chúa."

 

1 Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện,
biết noi theo luật pháp CHÚA TRỜI

2 Hạnh phúc thay kẻ tuân hành ý Chúa,
hết lòng hết dạ kiếm tìm Người.

3 Họ không làm điều ác, nhưng cứ đường lối Chúa mà đi.

4 Vâng lạy Chúa, Ngài đã ban huấn lệnh,
truyền chúng con tuân giữ vẹn toàn.

5 Ước mong sao con hằng vững bước
theo thánh chỉ Ngài ban.

17 Xin tỏ lòng nhân hậu cùng tôi tớ Chúa đây
để con được sống và tuân giữ lời Ngài.

18 Xin mở mắt cho con nhìn thấy
luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao.

33 Lạy CHÚA, xin dạy con đường lối thánh chỉ,
con nguyện đi theo mãi đến cùng.

34 Xin cho con được trí thông minh
để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ.

 

Bài Thánh Vịnh hôm nay,  một tiếng vang thật thích hợp với đọan sách Huấn Ca trong Bài Đọc Một, bài này cũng cùng tiếp theo một suy niệm. Cả các ý được triển khai, (dĩ nhiên có khác giữa hai bài nhưng  liên kết chặt chẽ ) là con người, chỉ tìm thấy hạnh phúc trong sự tín thác vào Thiên Chúa, và vâng theo các điều răn của Ngài. Tai họa và sự chết khởi đầu cho con người, khi sống tách rời con đường thanh thản tín thác vào Thiên Chúa. Để thấm vào đầu chúng ta, lòng ngờ vực Thiên Chúa, và những điều răn của Ngài; như thế cứ chỉ làm theo ý mình; có thể nói,  là dấn thân vào một con đường sai lầm, một ngõ cụt. Đó là vấn nạn của A-đam và E-và, theo tường thuật sự sa ngã  ở vườn Địa Đàng.

Chúng ta nhận ra tại vị trí phụ, ở hàng sau của bài thánh vịnh, đề tài hai con đường, khi chúng ta suy niệm Bài Đọc Một. Theo sách Huấn Ca, chúng ta là lữ khách trên một hành trình bất tận, luôn luôn phải rà soát lại con đường mình đi… Phúc cho ai trong chúng ta tìm thấy con đường tốt cho mình! Vì hai con đường luôn mở ra trước mặt chúng ta, một bên dẫn đến hạnh phúc, một bên  đưa đến bất hạnh.

Hạnh phúc, theo bài Thánh Vịnh này thật giản dị. Đúng ra, con đường đối với một tín hữu là theo Lề Luật của Thiên Chúa: «1 Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp CHÚA TRỜI». Người tín hữu biết thế nào là vẻ dịu êm của cuộc sống, trong khi tín trung vào các điều răn Thiên Chúa, đấy là điều bài Thánh Vịnh muốn nói cho chúng ta.

Bài thánh vịnh 118 (119) là bài dài nhất các thánh vịnh, và các câu được chọn trong phụng vụ hôm nay chỉ là một phần nhỏ, tương đương với một khúc của bài thơ. Thật ra, bài gồm 172 câu, nghĩa là có 22 khúc, mỗi khúc có 8 câu. Những con số 22 và 8 không phải là một sự ngẫu nhiên.

Tại sao bài có 22 khúc? Bởi vì có 22 chữ cái trong vần A,B,C Do Thái: mỗi câu bắt đầu bằng một chữ cái và các khúc lại cũng theo vần A,B,C. Thể văn này, theo tiếng Pháp gọi là Acrostiche, nhưng ở đây không phải là một áng văn, một thành tích! Đây chính là một sự tuyên xưng đức tin: bài thánh vịnh tôn vinh Lề Luật, sự chiêm ngắm một ân huệ từ Thiên Chúa, đó là Lề Luật (những giới răn). Còn hơn một bài thánh vịnh, chúng ta nên xem như một lời kinh cầu nguyện. Một kinh cầu nguyện tôn vinh Lề Luật, điều không vinh dự gì khi thú nhận là khá xa lạ với chúng ta!

Điều rất lạ với chúng ta,  một trong những đặc điểm của Thánh Kinh, là tình yêu Lề Luật thật sự chiếm hữu người Tín Hữu. Những giới răn không áp đặt cho chúng ta như những gì phải chịu lụy, mà là những lời khuyên, những lời khuyên duy nhất dẫn đến để sống cuộc đời hạnh phúc: «Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp CHÚA TRỜI». Khi người của Thánh Kinh nói lên câu này, họ thật lòng nghĩ như thế. Đây, dĩ nhiên không phải là một phép mầu. Những người tuân theo Lề Luật có thể gặp mọi gian khổ ở đời, nhưng trong các trường hợp bi đát ấy, người tín hữu biết rằng, con đường duy nhất tin tưởng vào Thiên Chúa có thể đem đến cho họ bình an trong tâm hồn.

Chẳng những Lề Luật không phải bị gánh chịu như một việc áp đặt, mà còn xem như một món quà nhưng không, đến từ Thiên Chúa ban cho dân Ngài; cảnh báo họ tránh mọi con đường lầm lẫn. Lề Luật được xem như một biểu hiện sự quan tâm của Chúa Cha đối với con cái Ngài; cho một người bạn để tránh những điều hiểm nguy. Mọi người tin rằng Chúa ban cho Lề Luật, và Lề Luật được xem như một món quà. Vì Chúa không chỉ hài lòng giải thoát dân Ngài khỏi nô lệ Ai Cập; nếu để mặc họ, Ít-ra-en có nguy cơ sa ngã vào những xiềng xích, e rằng tệ hại hơn nữa. Có thể xem như việc Chúa ban cho Lề Luật, đại loại như trao ban phương thức sử dụng sự tự do. Vì vậy Lề Luật là biểu hiện của tình yêu Chúa dành cho dân Ngài.

Cũng phải nói không chờ đến Tân Ước mới khám phá ra Chúa là Tình Yêu, và Lề Luật không có chủ đích gì khác hơn là dẫn chúng ta đến con đường tình yêu. Tất cả Thánh Kinh là lịch sử kinh nghiệm bước đầu về tình yêu, và cuộc sống huynh đệ của dân tộc được Chúa chọn. Sách Đệ Nhị Luật chép: «4 Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. 5 Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em)» (Đnl 6, 4-5). Ít lâu sau, Chúa Giê-su làm cho hai điều răn ấy gần nhau hơn, chúng ta có thể nói, Ngài đã tóm lược cả Lề Luật Do Thái.

Tôi xin trở lại cái Mối Phúc Thật lạ kỳ của câu thứ nhất. «Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp CHÚA TRỜI.» Chúng ta có dịp suy nghĩ về ý nghĩa của cụm từ “hạnh phúc thay”, chúng ta cũng có dịp xem cách dịch từ nguyên bản, có nghĩa là «trên đường tiến lên». Như thế, chúng ta có thể đọc: «Hỡi người biết noi theo luật pháp hãy vững lòng bước đi trong tin tưởng». Tác giả bài Thánh Vịnh xác tín rằng, đây là đời sống và hạnh phúc của mình, nên hát lên bài thánh vịnh - lời nguyện này như đang cầu nguyện. Sau ba câu đầu, là những lời xác quyết về hạnh phúc con người khi giữ Lề Luật, còn 173 câu kia hướng thẳng đến Thiên Chúa với một thể văn, có lúc thì chiêm ngắm, lúc thì van xin, như câu sau đây: «18Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao». Và lời cầu nguyện cứ như thế tiếp tục không ngừng, với những cung cách tương tự hay gần giống như thế. Ví dụ trong mỗi khúc, bằng tiếng Do Thái, trở lại tám chữ lúc nào cũng tám chữ ấy, để miêu tả Lề Luật. Chỉ có những kẻ đang yêu mới dám lặp lại không nhàm chán…

Tám chữ lúc nào cũng tám chữ ấy, tám câu trong mỗi khúc trong 22 khúc. Số 8 trong Thánh Kinh là con số có ý nghĩa tạo dựng mới. Sự Tạo Dựng tiên khởi của Thiên Chúa được hoàn tất trong 7 ngày; thế thì, ngày thứ tám là ngày của sự tạo dựng mới, những «trời mới và đất mới», như một lời tuyệt vời của Thánh Kinh. Sự Tạo Dựng cuối cùng này, sẽ xuất hiện lúc nhân loại sống theo lề luật Thiên Chúa, có nghĩa là trong tình yêu, vì hai điều là như nhau.

***

 

Tác giả: Marie-Noëlle Thabut                        
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions


Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân                
Hiệu đính: Phêrô Nguyễn Thế Hoằng                  


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com