Lời Chúa CN

Tìm hiểu Kinh Thánh Chúa nhật 6 Phục Sinh Năm A - Marie-Noëlle Thabut

BÀI ĐỌC 1 ( Cv8, 5-8.14-17)

 

Các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần

Trích sách Tông Đồ Công Vụ


5 Ông Phi-líp-phê xuống một thành miền Sa-ma-ri và rao giảng Đức Ki-tô cho dân cư ở đó.

6 Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Phi-líp-phê giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm.

7 Thật vậy, các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những kẻ bị chúng ám. Nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành.

8 Trong thành, người ta rất vui mừng.

14 Các Tông Đồ ở Giê-ru-sa-lem nghe biết dân miền Sa-ma-ri đã đón nhận lời Thiên Chúa, thì cử ông Phê-rô và ông Gio-an đến với họ.

15 Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ, để họ nhận được Thánh Thần.

16 Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su.

17 Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần.

Các bài đọc, từ chúa nhật này sang chúa nhật khác theo thứ tự sách Công vụ Tông đồ, nhưng không đủ thời gian, chúng ta không đọc toàn bộ sách, và chúng ta chỉ đọc nhanh chóng từng tự các đoạn ngắn. Chúa nhật vừa qua chúng ta đã đọc bài tường thuật chọn lựa bảy người được giao nhiệm vụ giúp đỡ các bà góa cộng đồng Giê-ru-sa-lem, hôm nay chúng ta đang ở xứ Sa-ma-ri-a với anh Phi-líp-phê, một trong bảy người ấy. Nhưng có chuyện gì xảy ra giữa thời gian ấy đến hôm nay ?  Chúng ta đang trong một bầu khí phấn chấn hay gần như thế, có người nói: « lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin»(Cv6, 7). Thật ra, bài hôm nay không nói rõ cho chúng ta rằng,  từ hôm đó đến hôm nay tuy không bao lâu, mọi việc không hay lại xảy ra.

Rất lạ lùng, cũng từ nhóm người Hy-lạp gốc Do Thái, xảy ra những khó khăn từ bên trong cộng đồng Ki-tô ( những khó khăn đã dẫn đến  thành lập nhóm 7 người) và cũng tại vì họ mà nảy sinh những vấn đề trong các cộng đồng Do Thái gốc Hy-lạp. Không bấy lâu sau, Nhóm Bảy người được chọn này là mục tiêu của các bạn đồng hương của họ. Thánh Lu-ca kể lại rằng anh Tê-pha-nô, một trong bảy người ấy, bị những người Do Thái gốc Hy-lạp trong đền thờ gây hấn. Các bạn hẳn biết đoạn sau câu truyện, Tê-pha-nô bị bắt, bị hành quyết. Những chống đối nay ra mặt : « Hồi ấy, Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông Đồ ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri…Vậy những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo lời Chúa.» (Cv8, 1…4). Đoạn tiếp theo, sách Công vụ cho chúng ta biết họ qua Phê-ni-xi, Sýp và  An-ti-ô-khi-a ( Cv11, 19)

Đấy là diễn biến các sự kiện. Cuộc tử đạo của Tê-pha-nô không làm dịu đi cơn thịnh nộ những người đối lập, mà cũng không làm cho những Ki-tô hữu trẻ hăng say hơn, duy chỉ những người có nguy cơ bị bách hại lẫn tránh và thực sự làm cho việc truyền giáo nổ« bùng lên ». Có thể nói nhờ sự bách hại, Tin Mừng vượt khỏi khu vực Giê-ru-sa-lem và đi đến các thành phố ngoài xứ Giu-đa và Sa-ma-ri.  Sau này, người ta còn nhớ câu sau cùng của Chúa Giê-su, ngày lễ Thăng Thiên :« anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.»( Cv1, 8). Chính xác, đó là những gì đang xảy ra. Thật là một điều ngược đời, sự thử thách ấy - bách hại và cộng đoàn bị ly tán - làm cho việc rao giảng Tin Mừng được mở rộng. Có thể nói việc rao giảng Tin Mừng chạy « mở hết máy ».

Thật tình ông Ga-ma-li-ên có lý. Ga-ma-li-ên, là một người Pha-ri-sêu khả ái nhất trong Tân Ước. Thánh Lu-ca nói về ông trong chương 5 sách Công vụ Tông đồ. Ông lý luận như một người có đức tin. Đề cập đến các Tông đồ, ông nói : « Vậy giờ đây, tôi xin nói với quý vị: hãy để mặc những người này. Cứ cho họ về, vì nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá huỷ được; không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa." Họ tán thành ý kiến của ông.»(Cv5, 38-39)  

Vì lẽ ấy anh Phi-líp-phê xuống vùng Sa-ma-ri, nhưng thay vì trốn tránh, anh đứng ra rao giảng. Hơn nữa, ta thấy rõ ràng nhanh chóng anh vượt qua sứ vụ anh được giao phó : tiên khởi anh Phi-líp-phê được chọn trong số Bảy người để dọn bàn cho các bà góa Giê-ru-sa-lem, để cho các Tông đồ - Nhóm Mười Hai - được rảnh tay tiếp tục cầu nguyện và rao giảng Lời Chúa. Và chúng ta nhận ra bây giờ anh là người rao giảng vùng Sa-ma-ri. Vì thế phải biết uyển chuyển : một sứ vụ có thể có nhiều mặt khác nhau, nhu cầu của cộng đoàn mới quyết định. Dù sao đi nữa, anh Phi-líp-phê rõ ràng vẫn giữ liên lạc chặt chẽ với những đấng đã trao sứ vụ cho anh, vì lẽ ấy cộng đoàn Giê-ru-sa-lem gửi đến cho anh hai vị, Thánh Phê-rô và Thánh Phao-lô để, có thể nói, chính thức hóa công việc anh làm. Hình như nơi đây chúng ta nhận ra một mẫu gương để duy trì cân bằng : cảm thấy tự do canh tân trong các sứ vụ của mỗi chúng ta và đồng thời giữ mối liên lạc với cơ chế…không phải trở nên những loại vệ tinh tự do.

Lúc bấy giờ lần lượt anh Phi-líp-phê bắt đầu rao giảng. Thánh Lu-ca nói : «Ông Phi-líp-phê … rao giảng Đức Ki-tô », câu rất xúc tích có nghĩa là : Chúa Giê-su thành Na-da-rét đã sống lại, Ngài là Đấng Mê-si-a mọi người trông đợi. Làm chứng cho sự phục sinh Đấng Ki-tô là trung tâm điểm của mọi cách rao giảng các Tông đồ. Chúng ta tự hỏi ngày hôm nay nữa, sứ điệp ấy dưới mắt thế gian có còn là trung tâm điểm của sự rao giảng đạo Ki-tô nữa không ?

Một đặc điểm khác của Giáo Hội sơ khai, theo Thánh Lu-ca, đó là niềm vui : ngài thường đề cập đến trong sách Công vụ Tông đồ. Ngay trong bầu khí bách hại, ngài còn nghĩ đến niềm vui. Ví dụ như khi các Tông đồ bị đánh đòn, họ hạnh phúc xứng đáng chịu những xúc phạm vì DANH Chúa  (5,41) « Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su» , bởi vì họ xem các ông được như người  thân cận Đức Ki-tô, khi người thái giám của nữ hoàng xứ Ê-thi-óp được Phi-líp-phê làm phép Rửa trên đường Ga-da, anh ta ra đi « lòng đầy hoan hỷ » (8, 39) ; khi ông Ba-na-bê lần đầu tiên đến An-ti-ô-khi-a xứ Xi-ri « ông Ba-na-ba mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa» (11, 23) ; sau cùng Thánh Phao-lô về sau dạy rằng niềm vui là một trong các hoa trái của Chúa Thánh Thần « Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín»(Gl5, 22). Chúng ta thường có thói quen nói rằng chúng ta sẽ được phán xét qua tình yêu…có lẽ chúng ta cũng sẽ được xét xử qua niềm hoan lạc.

***

 

THÁNH VỊNH (Tv 65, 1-3-7,16.20 )

( Xem các câu khác CN XIV TN năm C )

 

Đáp : Toàn thể đất nước , hãy reo mừng Thiên Chúa

Hoặc đọc : Alleluia.

 

Phần nhạc trưởng. Thánh ca. Thánh vịnh.
Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa,

3 Hãy thưa cùng Thiên Chúa:
"Khủng khiếp thay, sự nghiệp của Ngài!
Trước thần lực uy hùng, địch thù khúm núm.

4 Toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ,
và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh."

5 Đến mà xem công trình của Thiên Chúa:
hành động của Người đối với phàm nhân
thật đáng kinh đáng sợ!

6 Chúa làm cho biển khơi hoá đất liền,
và dân Người đi bộ qua sông;
việc Người làm đó khiến ta hoan hỷ.

7 Chúa uy dũng hiển trị muôn đời;
đôi mắt Người theo dõi chư dân,
quân làm phản chớ có hòng nổi dậy!

16 Tất cả những ai kính sợ Chúa Trời,
đến mà nghe tôi kể việc Chúa đã làm để giúp tôi.

20 Xin chúc tụng Thiên Chúa
đã chẳng bác lời thỉnh nguyện tôi dâng,
lại cũng không dứt nghĩa đoạn tình.

Nếu các bạn không bị va chạm bởi chữ « khủng khiếp »được Chúa dùng hai lần trong những câu trên đây thì càng hay ! Vì nếu các bạn hiểu như chúng ta phải kinh hãi sợ Chúa, dĩ nhiên thì không thể chấp nhận được, và hoàn toàn không thích hợp với điều Thánh Kinh mặc khải, một « Thiên Chúa từ bi nhân hậu và trung tín », như sách Xuất Hành viết. Cũng nên ghi nhận rằng trong Pháp ngữ, thỉnh thoảng chúng ta dùng từ này với một thoáng cảm tình ngưỡng mộ : khi chúng ta nói về một nhà vô địch thể thao, ví dụ như vậy, « hắn thật khủng khiếp », hay một chính trị gia, ông này là một nhà « chính trị khủng khiếp », không phải vì sợ ta nói thế, đó là một lời thán phục trước những khả năng phi thường.

Thật ra, trong cách nói Thánh Kinh, chữ « khủng khiếp »dành cho lời ca ngợi hướng về một vị vua ngày được lên ngôi, để chúc cho ngài một triều đại vinh quang. Đây là từ ngữ vương giả : nói về Chúa như thế là một cách đơn  giản tỏ cho Ngài : « rốt cục, vua duy nhất của chúng tôi là Ngài » Công thức nói rằng « Hãy thưa cùng Thiên Chúa: "Khủng khiếp thay, sự nghiệp của Ngài! » đó là cách nói  « Hãy tung hô Chúa như vua, vua các bạn »

Mặc dù tính vương giả của Cha đã hiện thực trên mọi tạo vật, bởi đơn sơ chỉ vì Ngài là Đấng Tạo Hóa, thế nhưng mọi tạo vật không công nhận Ngài như thế. Bài thánh vịnh này mời gọi toàn địa cầu ngợi khen Thiên Chúa « Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa, 3 Hãy thưa cùng Thiên Chúa: "Khủng khiếp thay, sự nghiệp của Ngài! ». Nhân dịp này tôi xin lưu ý, bài ca « cả trái đất mừng vui hát lên niềm vui Thiên Chúa alleluia,alleluia » (LND : một thánh ca quen thuộc người Pháp ) là một cách gián tiếp giải thích bài thánh vịnh 65 này.

Không phải lần đầu tiên chúng ta thấy Ít-ra-en cầu nguyện cho « cả trái đất điều này có nghĩa là, dĩ nhiên cho cả nhân loại. ». Dân Chúa chọn luôn luôn ý thức có nghĩa vụ cho  thế gian, và nghĩa vụ ấy chỉ hoàn tất một khi tất cả các dân tộc quy tụ lại trong niềm vui Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ lại những lời tiên tri I-sa-i-a nói về các dân tộc quy tụ lại Giê-ru-sa-lem ví dụ như: « tôi tớ của Người…đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta.» (Is56, 7) Hơn nữa, các bạn nghe như một điều sống trước ngày ấy, mọi dân tộc đã họp thành đoàn người hành hương lên đền Giê-ru-sa-lem : « Toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ, và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh.» (c4)   

Đây không may chỉ là như sống trước những điều ao ước, nhưng gợi đến tương lai đó là cách làm cho chóng đến, nhất là tương lai lòng ta rạt rào ao ước : như thế chúng ta làm đủ cách để thực hiện. Một khi chúng ta không mong muốn có hòa bình giữa các dân tộc, thì không có lý do gì hoà bình được thực hiện như một phép màu !

Bài thánh vịnh này đem chúng ta chìm ngập vào vừa quá khứ, vừa hiện tại, và tương lai, nó dẫn chúng ta vào điều dân Do-Thái tượng trưng cho chiều kích lịch sử  của trải nghiệm đức tin của họ. Điều chúng ta gọi là việc tưởng niệm.

Xã hội đương thời chúng ta thường đề cao tính cách cá nhân, độc nhất, của trải nghiệm từng người. Đối với chúng ta trải nghiệm cá nhân cao hơn trải nghiệm tập thể. Trong thế giới của Thánh Kinh thi ngược lại, trải nghiệm cá nhân cao trọng hơn... Từ tuổi trẻ đứa bé Do Thái đã tham dự vào ký ức của dân tộc. Tất cả những lời cầu nguyện, ngày Sa-bát, tất cả những ngày lễ tôn giáo, tất cả những cuộc hành hương gợi lên cả ký ức tập thể trong ấy họ được tiệm tiến thấm nhuần. Đứa trẻ được nghe biết bao lần người lớn ca ngợi vinh quang Thiên Chúa, kể lại những « kỳ công »của Ngài, như người ta thường nói…một ngày kia, một cách tự nhiên đến phiên nó cầm ngọn đuốc truyền lại… Đứa trẻ nghe bậc đàn anh quả quyết đầy xác tín : « Xin chúc tụng Thiên Chúa đã chẳng bác lời thỉnh nguyện tôi dâng, lại cũng không dứt nghĩa đoạn tình.»(c20) ; trước mặt Ngài họ không ngừng lặp lại những thành tích Thiên Chúa đã giải thoát cha ông khỏi ách nô lệ Ai-cập : « Chúa làm cho biển khơi hoá đất liền, và dân Người đi bộ qua sông» (c6)  

Suốt cả ngày, những người lớn thánh thiện - từ lời nguyện ban mai đến lời nguyện buổi tối, qua những bữa cơm và những hành động trong thường nhật - đều thấm nhuần ký ức Thiên Chúa giải thoát khỏi mọi hình thức nô lệ. Vào gia đình nó,  đứa trẻ cũng được hoàn toàn hội nhập vào dân tộc mình, đứa trẻ Do-thái đi vào « ký ức »của dân tộc ấy. Chúng ta thấy rõ điều này giả thiết một đời sống gia đình thật sự, cũng như một quan niệm mãnh liệt thuộc về một dân tộc.

Chính cái ký ức tập thể ấy thiếu vắng nơi nhiều những người trẻ Ki-tô hữu chúng ta, và chúng ta cũng đừng ngạc nhiên chúng không còn biết gì hết, như chúng ta thường nói, về văn hóa tôn giáo, vì ký ức dân tộc không phải vấn đề của các chương trình giáo dục về tôn giáo, dù có hay bấy nhiêu, đó là việc của đời sống tập thể, các nghi thức thường xuyên lãnh hội tiệm tiến và ở đây chúng ta thấy nguy cơ của cá nhân tính. Nói đến đây chúng ta biết ngay chúng ta còn phải làm gì để truyền lại đức tin cho giới trẻ chúng ta : thấm nhuần ký ức đức tin chúng ta trong cuộc sống hằng ngày trong gia đình và làm sống lại mối liên hệ với các cộng đoàn.

***

 

BÀI ĐỌC 2 ( 1Pr3, 15-18)

 

Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phê-rô Tông đồ

 

Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em.

16 Nhưng phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng. Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Ki-tô, thì chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống,

17 bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý của Thiên Chúa, còn hơn là vì làm điều ác.

18 Chính Đức Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội lỗi -Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương- hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh

Nếu phải tóm tắt những hàng trên đây, có lẽ chúng ta có thể nói rằng:  hỡi anh em, bây giờ đến lượt anh em ăn ở giống Chúa Ki-tô. Ngài cũng bị kết án, vu khống, đe dọa, nhưng Ngài không chệch hướng, đến phiên anh em, anh em cũng phải có thể trả lời với những đối phương anh em.

Từ đoạn này - không có những thông tin gì chính xác về những người đến nghe Thánh Phê-rô - có thể luận ra các ông phải chịu nhiều điều phật ý và những lời chế nhạo từ những dân ngoại. Họ không bị bách hại công khai nhưng bị chống đối ngầm, họ phải giải thích, mỗi lần từ chối vài hành động người ngoại, ví dụ như hiến tế cho các thần linh « hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em.»(c15), đó là cách nói : đừng tin vào ai khác. Lời khuyên ấy vẫn còn giá trị ngày nay cho chúng ta : Ki-tô hữu chúng ta không sợ ai hết : đức tin và lòng trông cậy nơi Chúa phải luôn không lay chuyển .

Giai đoạn đầu tiên : đó là điều xảy ra thâm sâu trong lòng chúng ta khi cầu nguyện : « Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em» (c15). Giai đoạn thứ hai, là dám nói lên lòng cậy trông chúng ta, sẵn sàng nói lên những gì chúng ta chờ đợi «Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. » (c15). Trong câu này chúng ta chỉ thường nhớ phần đầu…  «Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời… », thế nhưng Thánh Phê-rô khuyên chúng ta không nên nói ra trước. Đối với ngài, chúng ta chỉ chú tâm trả lời các câu hỏi của người chung quanh. Và những câu hỏi ấy chỉ nảy mầm khi tất cả cuộc sống của chúng ta là chứng tá cho lòng cậy trông : khi ấy những người thấy chúng ta sống, thế nào cũng đặt câu hỏi từ đâu đến lòng cậy trông bất diệt của chúng ta. Chúng ta chỉ làm chứng cho Chúa Giê-su Ki-tô chỉ khi trước tiên chúng ta sống hy vọng.

Có lẽ phải hiểu trong hướng ấy câu sau đây của Chúa Giê-su : « Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.»(Mt5, 16). Anh em hẳn biết câu nói của Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI, là một biến dạng cùng một đề tài : « Người thời đại chúng ta cần những chứng nhân hơn những người thầy…và họ nghe những người  thầy chỉ khi những người này là chứng nhân »  

Người tín hữu Ki-tô hướng lòng tin về điều gì ?  Đó là chiến thắng sự dữ. Thánh Phê-rô diễn giải ở đây cho đọc giả câu khích lệ của Chúa Ki-tô để lại cho các Tông đồ : «can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian » (Ga16, 33). Điều thế gian chờ đợi chúng ta làm chứng là sự dữ không phải là số mệnh : thế gian chờ đợi chúng ta không bao giờ buông tay trước sự dữ, hận thù và bạo lực.

Chứng tá không khoa trương : « Nhưng phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng» như Thánh Phê-rô nói. Sự hiền hoà và kính trọng ấy luôn luôn có trong chúng ta làm cho chúng ta có thể hiểu câu : « Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Ki-tô, thì chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống,»(c16).  « chính họ phải xấu hổ », dĩ nhiên không thể nào tưởng tượng, người Ki-tô hữu sống luật yêu thương Chúa Ki-tô không có việc gì làm là làm cho người khác phải xấu hổ, theo nghĩa chúng ta thường hiểu. Ở đây có nghĩa là, làm chứng cho đức tin, đức cậy và tình thương cho nhau, làm cho người khác đặt lại vấn đề cho chính những lời gièm pha của mình. Có lẽ sẽ làm cho họ đem lòng hoán cải : « Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.» ( Mt10, 18).

Ý nghĩa ngầm bài này khiến chúng ta đoán ra Thánh Phê-rô nao nức biết bao, muốn gẫm suy từ những bài ca Người Tôi Trung trong sách tiên tri I-sa-i-a. Suốt chiều dài của bốn bài ca vẽ lên dung nhan - mẫu người tín hữu : được Lời Chúa dạy dỗ, sống mật thiết với Chúa và đặt hết tin tưởng nơi Ngài. « Nó sẽ không kêu to, không nói lớn,»(Is42, 2) nhưng «  Nó không yếu hèn, không chịu phục» (c4) ; « này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất.» (Is49, 6). « vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.»( Is50,  7 ) ; sau cùng « chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.» (Is53, 4) Thánh Phê-rô quả quyết : « Chính Đức Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội »(c18). Cách nói « một lần » này là một lời kêu chiến thắng. Thế giới sự dữ và tội lỗi vĩnh viễn thất bại trong sự vâng lời của Người Con.

« Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh »(c18) : chữ thân xác theo nghĩa Thánh Kinh là những yếu đuối loài người, vốn là phải chết. Các kẻ thù của hắn chỉ có thể chạm đến hắn là thế; chúng không thể làm gì chống lại được Thần Khí tình yêu vì chính đó là nguyên tắc của sự sống : bởi vì Ngài đầy Thần Khí Thiên Chúa, sự chết không thể nào giữ Ngài trong quyền lực của sự dữ được, như Thánh Phao-lô nói. Trái lại Thần khí sẽ làm Ngài bước qua sự chết và làm nảy sinh sự sống, bởi vì Thần Khí, thể hiện ngày nhận phép Rửa là Thần Khí sự sống : « Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.» (Mt10, 28) . Chính Thần Khí ấy đã ngự trong chúng ta ngày nhận lãnh bí tích Rửa Tội : kể từ nay chúng ta biết rằng ngày chúng ta phải chạm tráng với sự chết trong thân xác như Chúa Ki-tô, Thần Khí sẽ trả lại sự sống như Ngài. Đó là đỉnh cao của lòng cậy trông chúng ta.

***

 

PHÚC ÂM ( Ga14, 15-21 )

 

Alleluia, alleluia – Chúa phán: « Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy » » . – Alleluia .

Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác .

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an

 

15 Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.

16 Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.

17 Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.

18 Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em.

19 Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống.

20 Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.

21 Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy."

Mục đích của Chúa Giê-su, trong bài giảng này là để trấn an các môn đệ Ngài, cho các ông « lương thực dự trữ »để chạm tráng với những sự kiện sắp đến cho đến ngày các ông sẽ thấy Chúa sống lại. « Ngày ấy », các ông sẽ có thể nhận ra Ngài, biết Ngài thật sự, biết vai trò và sứ vụ của Ngài, tất cả sẽ trong sáng : lúc ấy các ông sẽ có « sự khôn ngoan của Thánh Kinh »

Những món dự phòng Chúa ban cho các ông để đối đầu với những giờ phúc đau khổ, có thể tóm tắc lại trong năm từ : mọi sự đã hoàn tất. Năm chữ đó Ngài chỉ nói thật sự lúc gần trút hơi thở cuối cùng, nhưng Ngài triển khai ở đây : « Mọi sự đã hoàn tất »có nghĩa là công trình vĩ đại Thiên Chúa « Giao Ước với nhân loại » hoàn tất. Chúa Giê-su nói bằng hai cách.

Đầu tiên, một mặc khải về Ngài, để nói lên Ngài là Thiên Chúa, và chỉ Ngài hoàn tất công trình. Các Tông Đồ là những người Do Thái thánh thiện nên đọc mỗi ngày kinh Tin Kính Do Thái « Shema It-ra-en » : « Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em).»(Đnl6, 4-5). Đó là cách phát biểu của Giao Ước, lòng tin vào Thiên Chúa Duy Nhất, tình yêu và vâng lời các điều răn. Thế mà Chúa Giê-su lặp lại những điều ấy về cho mình : Ngài nói hãy yêu mến Ta, vâng theo các điều răn của Ta »có nghĩa là nói « Ta là Thiên Chúa »…nhưng đồng thời Ngài cũng quả quyết «Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy»(c11) . Tương tự như Ngài nói  « anh em có thể quả quyết rằng  ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất.

Sau đó Chúa loan báo Chúa Thánh Linh. Vì các Tông Đồ là những người Do Thái thánh thiện, các ông đều thuộc lời tiên tri Ê-dê-ki-en : « Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành. » (Ed36, 26-27) và một lời tiên tri khác của ngài : « Ta sẽ không còn ẩn mặt đi, vì Ta sẽ đổ tràn thần khí của Ta xuống nhà Ít-ra-en »(Ed39, 29).  Chúng ta tìm lời hứa ấy nơi tiên tri I-sa-i-a: « Ta sẽ đổ thần khí, trên con cháu ngươi,»(Is44,3). Các tiên tri về sau này còn đi xa hơn. Ví dụ như ngôn sứ Da-ca-ri-a : « Ta sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đa-vít và dân cư Giê-ru-sa-lem, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và tha thiết cầu nguyện.»(Dc12, 10). Đối với tiên tri Giô-en lời hứa ban ơn Thánh Linh là hoàn vũ, chứ không dành cho các ngôn sứ, các vua, hay ngay cả cho dân Chúa chọn. : « Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm» ( Ge). Vậy khi nói với các Tông Đồ : « Đó là Thần Khí sự thật, …thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.» nói như thế cũng như loan báo ngày trọng đại đã đến, ngày của Giao ước vĩnh viễn.

Ngay chữ « ở trong » ( trong câu  « Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.» ) gợi lên nơi các Tông đồ dòng thời gian dài chờ đợi của dân Ngài. Lòng ước ao của các tín hữu thời Cựu Ước là sự hiện diện Thiên Chúa giữa dân họ. Có cái Lều Gặp Gỡ thời Xuất Hành, Đền Giê-ru-sa-lem…nhưng họ chờ đợi Giao Ước Mới nơi ấy Thiên Chúa cư ngụ, không phải trong các lâu đài, nhưng trong lòng dân tộc Ngài. Và Chúa đã hứa. Ví dụ từ miệng tiên tri Ê-dê-ki-en : « Ta sẽ lập với chúng một giao ước bình an; đó sẽ là giao ước vĩnh cửu đối với chúng, Ta sẽ định cư chúng, cho chúng sinh sôi nảy nở ra nhiều và đặt thánh điện của Ta ở giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà của Ta sẽ ở giữa chúng; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của Ta»(Ed 37, 26-27)  hay là nơi tiên tri Da-ca-ri-a : « Hỡi con gái Xi-on, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi » (Dc2, 14) )

Các Tông Đồ được nhào nặn trong lòng cậy trông ấy : vâng, Giao Ước vĩnh viễn  từ Cựu Ước hứa, dành cho toàn thể nhân loại. Chúa Giê-su sáng lập quy chế Bí Tích Thánh Thể cũng trong viễn ảnh cứu độ toàn thế giới ấy, Ngài nói : « Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người»(Mc14, 24) Suốt cuộc đời công khai của Ngài, Chúa nói lên lòng khao khát toàn thế giới được  cứu độ. Thế mà giờ đây, đến lúc quyết định của sự cứu độ Ngài tuyên bố thế gian không thể đón nhận …thế thì anh em là người làm cho thế gian biết, anh em là những người mặc khải cho thế gian sự hiện diện tích cực của Thần Khí trên mọi người.

Chữ “thế gian” ở đây không có nghĩa gì tiêu cực. Chúa Giê-su không bao giờ tiêu cực ( tiêu cực và tư tưởng thất bại không phải là người Ki-tô). Thế gian được cứu độ là lòng ao ước cao cả của Chúa: « Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ»(Ga3, 17)Thật ra muốn hiểu dễ hơn, phải thay thế chữ « thế gian »bằng « tinh thần thế gian » và đối ngược lại với « tinh thần yêu thương » 

Chúa Giê-su muốn trợ lực các môn đệ Ngài, giúp họ tin rằng sự lây lan của tình yêu dần dần sẽ thắng và có thể biến tinh thần thế gian thành tinh thần yêu thương. Một cách nào đó sứ vụ Chúa trao cho họ là Phúc Âm hoá bằng cách lây lan, thấm ra từ từ. Sứ vụ vô phương thực hiện được hay sao ?  Không phải thế, bởi vì Chúa Giê-su nói với họ : « Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. »(18-19). Và chúng ta biết rằng khi Chúa Giê-su nói sống, tức là yêu thương.

*** 

 

Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions


Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân

Hiệu đính: Nguyễn Thế Hoằng.

 


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com