Ðức Giêsu muốn sáng lập Giáo hội
Ðể có thể nhận rõ được ý muốn của Ðức Giêsu, thì phải tìm hiểu Tân Ước, đặc biệt là các Phúc Âm, bởi đó là gốc cội duy nhất của các nguồn liệu có khả năng soi sáng cho vấn đề. Con người Giêsu đã tỏ ý của mình ra qua những lời Ngài nói và những việc Ngài làm; những lời nói và việc làm đó soi sáng và giải thích cho nhau.
1. Lời Hứa
Chương 16 của Phúc âm Matthêu thuật lại rằng: Ðức Giê-su hỏi các môn đồ là dân chúng nghĩ Ngài là ai. Ngay sau đó, Ngài hỏi tiếp: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Và ông Simon thưa: “Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Ðức Giêsu khen ông, rồi nói tiếp: “Này anh Simon, con ông Giona, anh thật có phúc... Thầy bảo cho anh biết: anh là ‘Phêrô’ nghĩa là Tảng Ðá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy...” (Mt 16: 13-20).
Ðoạn trình thuật này rất quan trọng đối với môn Giáo hội học. Nó nêu rõ sự việc Ðức Giêsu hứa xây dựng Giáo hội trên Phêrô, và ám chỉ tới nhiệm vụ của ông trong Giáo hội ấy. Ðể hiểu rõ về lời hứa ấy thì cần lưu ý đến một vài vấn nạn như sau:
Trước hết, lời hứa ấy có phải đích thực là lời của chính Ðức Giêsu hay không? Hay là thánh ký đã gán lời ấy cho Ngài để giải thích vai trò thủ lãnh của Phêrô trong cộng đoàn sơ khai? Hoặc là cộng đoàn kitô đã nghĩ ra lời đó để mang lại cho Giáo hội sơ khai một nền tảng “thần khởi” ?
— Nhiều nhà phê bình phủ nhận câu ấy là lời của chính Ðức Giêsu lịch sử; họ dựa vào những lý do sau đây:
1. Có người không nhận câu ấy có ở trong Phúc âm Matthêu nguyên thủy, nhưng đã được mạo nhập vào trong văn bản, vì a) các văn bản đối chiếu trong các Phúc âm khác không ghi câu ấy; b) vì các Giáo phụ cổ nhất đã không trích dẫn câu ấy; c) vì thánh Phaolô đã tranh cãi với thánh Phê-rô... Có kẻ (như A. Rosch [1893], I. Grill [1904]...) còn cho rằng giáo hoàng Victor đã thêm câu ấy vào văn bản Phúc âm khoảng năm 190; còn W. Soltau [1916] thì nhận là câu ấy có trong Phúc âm từ năm 110-120; A. Harnack [1918] lại nghĩ rằng câu 18 thuộc nguyên văn Matthêu, trừ thành ngữ “trên đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy”; ông M. Goguel cũng nghĩ như vậy.
2. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn rất ít tác giả phủ nhận câu ấy. Lý do là vì tất cả các văn bản cổ cũng như tất cả các bản dịch và các Giáo phụ đều biết đến câu đó. Nếu có ai đã lén mạo nhập lời ấy thì thế tất đã có người biết và phản ứng...
— Ðặc nét độc đáo của câu ấy là cho thấy tác giả thuộc dòng giống Semita (Do thái): a) Simon Bariôná (con Gioan); b) sàrx kaì haĩma (“thịt máu” tượng trưng cho con người hèn yếu); c) Cha Thầy ho en toĩs ouranoĩs (ở trên trời = thành ngữ quen dùng trong văn bản Phúc Âm Matthêu: 20 lần đọc thấy ở trong các Phúc âm nhất lãm, mà chỉ 1 lần trong Mc, và chỉ 1 lần trong Lc); d) phép chơi chữ ấy (“con là đá [kepha]... trên đá [kepha ] ấy...”) chỉ có ý nghĩa trong tiếng A-ram mà thôi; vì nếu bằng tiếng Hy lạp, thì Pétros (người) khác với pétra (đá); đ) “chìa khóa nước trời...” cũng là một thành ngữ Do thái: họ tránh kêu thánh danh Giavê, Thiên Chúa, và thay thế bằng danh xưng là “trời”; e) từ ngữ “tháo buộc” rất được dùng đến ở trong giới luật sĩ Do thái; g) câu khen Phêrô: “Phúc cho...” dùng ngôi thứ hai: “makários eĩ… soi… sù eĩ Pétros…” là một cách dụng ngữ hiếm có trong những công thức chúc phúc theo tiếng Hy lạp.
3. Có tác giả cho rằng đoạn Mt 16: 15-19 là do ông Matthêu soạn ra, chứ không phải là lời của chính Ðức Giêsu; tức là họ phủ nhận sử tính của câu ấy, và chủ trương là Ðức Giê-su đã không nghĩ gì về tương lai, không có ý sáng lập một tôn giáo mới, vì Ngài chỉ giảng cho dân Do thái và cấm các môn đồ đi về phía dân ngoại, v.v. Hơn nữa, Matthêu là phúc âm gia duy nhất viết câu ấy; còn Mc, Lc, Ga, thì chẳng có nói gì đến. Lại nữa, theo họ, việc dùng từ ekklesia trong câu ấy là không “hợp thời,” vì họ cho là từ ekklesia được Giáo hội chọn để làm danh xưng của mình.
— Phải trả lời thế nào cho các ý kiến ấy ? Dưới đây, chương 15 sẽ bàn tới “nhân vật Phêrô” theo nhãn quan lịch sử; chút nữa chúng tôi sẽ có dịp nói về Ðức Giêsu với những gì Ngài dự định cho tương lai.
Làm như để nhắn tới tai những ai hoài nghi giá trị lịch sử của câu ấy đơn thuần là vì chỉ đọc thấy nó ở trong Mt mà thôi, nhà chú giải Tin lành, Oscar Cullmann, đã viết: “Chỉ cần lưu ý đến một thí dụ này thôi thì cũng đủ: nếu quả đó là tiêu chuẩn cần phải dựa vào, thì phải vứt bỏ không biết bao nhiêu là lời quý báu chỉ đọc thấy được ở trong bài giảng trên núi:” những lời mà duy một mình Matthêu ghi lại. [10]
Từ ekklêsía có thể dịch ra tiếng Aram là qehala hoặc là k’nishta, tương đương với từ qâhal hoặc edâh trong tiếng Hy bá, đó là những từ ngữ Ðức Giêsu đã có thể dùng được như các người sống trong thời Ngài, và như đọc thấy trong bản LXX. Ðức Giêsu nói tiếng Aram; rồi sau đó Mt hay đúng hơn cộng đoàn Giêrusalem đã dịch ra tiếng Hy lạp là ekklesía. Một chi tiết khác nữa: ẩn dụ “xây” một cộng đồng đã có từ lâu ở trong Kinh Thánh và trong cách nói Do thái, thí dụ: Is 28: 16-17; 1Pr 2: 4. Trong một văn kiện của Qumrân có câu: “Ngài sẽ xây cho Thiên Chúa trên một nền tảng vững chắc, một cộng đoàn của những người được tuyển chọn.” Vậy có thể kết luận: câu ấy phù hợp hoàn toàn với lịch sử, với cách nói của dân Do thái; vì thế, Ðức Giêsu đã có thể nói như vậy; và quả ông Matthêu làm chứng là Ngài đã nói thế, không có lý do gì mà nghi ngờ.
4. Các tác giả còn bàn thảo và tìm hiểu xa hơn cho biết Ðức Giêsu đã nói những lời ấy tại nơi nào, và trong trường hợp nào. Mt xác định là tại Cêsarêa Philippi. Một số người nghi ngờ vì họ không hiểu tại sao sau khi khen Phêrô như thế, Ðức Giêsu lại nặng lời quở mắng ông (x. Mt 16: 23; Mc 8: 33). Vì thế, có người nghĩ là theo văn mạch, logion (câu nói) ấy thuộc một văn đoạn khác, nhưng Mt đã đem đặt vào chương 16 (bởi Mt thường xếp đặt các lời Chúa nói theo tiêu chuẩn thần học của mình). O. Cullmann tưởng Ðức Giêsu đã nói như thế trong bữa Tiệc ly; cha Vogtle cho là sau khi Ngài sống lại lúc hiện đến với các tông đồ. Ða số (cả công giáo lẫn tin lành) nhìn nhận bản văn Mt, tức Ðức Giêsu nói ở Cêsarêa, vì lời hứa ấy rất am hợp với lời tuyên xưng đức tin của Phêrô; còn các lời quở trách thuộc trạng huống khác (xem câu 21: “từ bấy giờ...”).
5. Kết luận: Mt 16:18 chỉ hàm ngụ một ý nghĩa này là: Ðức Giêsu hứa Ngài sẽ tập hợp một cộng đoàn (ekklesía) thuộc về Ngài. Cộng đoàn ấy có quan hệ đặc biệt với Phêrô, nghĩa là Simon “Ðá” sẽ có nhiệm vụ đặc thù trong Giáo hội của Ðức Kitô. Nhưng Giáo hội này sẽ mang dạng thể với những đặc tính như thế nào thì chưa thấy rõ được; chỉ có thể dựa theo những lời nói và việc làm của Ðức Giêsu đọc thấy trong khắp Phúc âm mà phỏng đoán hay mường tượng ra được ít nhiều chi tiết về thể cách của Giáo hội ấy. Mà nếu Ðức Giêsu đã hứa, thế tất có thể kết luận rằng Ngài cũng đã thực hiện, vì
– thật sự đã có Giáo hội,
– kết luận này không có gì đi ngược lại với đời sống và sứ điệp của Ðức Giêsu.
2. Ðức Giêsu giảng về nước Thiên Chúa hiển trị
Hiến chế tín lý về Giáo hội của công đồng Vaticanô II dạy rằng: “Mầu nhiệm Giáo hội được biểu lộ qua sự việc thành lập. Thực thế, Chúa Giêsu đã khai sinh Giáo hội bằng việc rao giảng tin mừng cho biết Nước Thiên Chúa đã đến như đã hứa trong Kinh Thánh từ ngàn xưa: ‘Thời gian đã trọn; Nước Thiên Chúa đã đến gần’ (Mc 1: 15; x. Mt 4: 17)” (LG 5).
Thế là Ðức Giêsu quả đã hứa sẽ “xây” Giáo hội của Ngài, như vừa bàn tới trên đây. Bây giờ, thử tìm hiểu vấn đề qua giáo huấn Ngài tuyên giảng. Mục tiêu nhằm tới ở đây là nêu bật cho thấy:
– về mặt tiêu cực: không một điểm nào trong giáo lý của Ðức Giêsu làm ta ngờ vực về lời hứa ấy;
– về mặt tích cực: giáo lý của Ngài hàm chứa “mầm giống” của Giáo hội tương lai.
Vaticanô II dạy rằng: việc thành lập Giáo hội là một mầu nhiệm (nghĩa là con nguời không thể thấu hiểu hoàn toàn được; là đối tượng của đức tin). Cuộc đời và công cuộc rao giảng của Ðức Giêsu là chính công trình sáng lập Giáo hội vậy.
a. Ðức Giêsu giảng về Nước Thiên Chúa
Các nhà chú giải đồng ý về điểm này: Ðức Giêsu đã rao giảng về “vương quốc Thiên Chúa.” [11] Từ ngữ “tin mừng” cũng phát nguyên từ Ðức Giêsu. Theo một nguồn truyền thống khởi thủy, Mc 1: 15 làm chứng về sự kiện: Ngài nói là: “Thời kỳ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy hối cải và tin vào Tin mừng.” Mc 1: 35-39 kể lại rằng Ðức Giêsu đã đi khắp miền Galilê để rao giảng tin mừng; và Ngài giải thích: “Vì Thầy đến cốt là để làm việc đó.” Trình thuật về cùng một sự kiện ấy theo nhãn quan thần học của ông, Lc 4: 43 viết: “Tôi còn phải loan báo tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành phố khác nữa, vì tôi được sai đến cốt là để làm việc đó” (euaggelísasthai… tèn basileían toũ theoũ); rồi nếu thử xem Mt 11: 2-6 và Lc 7: 18-23, thì sẽ thấy hai văn bản này đều quy về cùng một nguồn xuất xứ chung và có giá trị lịch sử chắc chắn. [12]
Khi ấy dân chúng Do thái đang trông chờ “tin mừng” về Ðấng Thiên sai , Ðấng sẽ chiến thắng kẻ thù. Thật ra, các ngôn sứ cũng đã tiên báo cùng một sứ điệp tương tự, chẳng hạn như: Nk 2: 1 hoặc Is 52: 7. Bài ca của Qumrân 18.14 cũng nói đến “tin mừng” về lòng rộng lượng từ bi của Chúa dành cho người nghèo (anawim). [13]
Ðức Giêsu loan báo “Nước Thiên Chúa,” điều đó có nghĩa là gì ? Tân Ước không bao giờ cắt nghĩa thành ngữ ấy, vì không người Do thái nào lại không hiểu rõ cách nói đó. Vậy, để hiểu về thành ngữ ấy thì phải nghiên cứu về bối cảnh văn hóa và tôn giáo Do thái, nhất là trong Cựu Ước.
b. Nước Thiên Chúa trong Cựu Ước
Chủ đề “Nước Thiên Chúa” xuất hiện rõ trong thời đại cuối cùng của Cựu Ước. Lần đầu tiên gặp thấy thành ngữ đó là trong câu 10: 10 của sách Khôn ngoan; nhưng ý niệm thì đã có trước lâu. M. Buber viết: “Làm cho ‘Vương quyền’ của Thiên Chúa đến trong khắp hoàn cầu là proton (điểm khởi đầu) và eschaton (điểm cánh chung/cùng đích) của Ítraen.”
Thiên Chúa là vua: đó là niềm thâm tín bàng bạc khắp các văn bản Kinh Thánh. Từ ngữ này được dùng trong một bài hát rất cổ xưa của Môsê (x. Xh 15: 11-18; nhưng có người – như Von Rad, chẳng hạn – cho rằng từ ấy mạo nhập lúc mà Ítraen đã lập chế độ quân chủ và đã có các vua: x. TWNT, I, trg 568); thâm tín ấy cũng hiện rõ trong sấm ngôn của Balaam (x. Ds 23: 21) và trong lời chúc phúc cuối cùng của Môsê (x. Ðnl 23: 1-5).
Sách Thánh vịnh thường ám chỉ đến vương quyền của Giavê. “Ngai của Chúa” là một từ ngữ đồng nghĩa. Thiên Chúa là vua duy nhất trong Ítraen và ngự ở Hòm Bia Giao ước (x. Ds 10: 35tt; 1Sm 4: 4; 2Sm 6: 2). Chúa ngồi trên ngai mà phán xét mọi sự (x. 1V 22: 19). Dù có một vị vua trong Ít-raen, nhưng vị này cũng chỉ được quyền nhân danh Giavê (x. 1Sb 6: 16). Tuy nhiên, Giavê là Chúa muôn dân, vinh quang Ngài đầy tràn hoàn cầu (x. Is 6: 3tt; Hbc 3: 2-19).
Thiên Chúa có quyền trên mọi dân nước và trên hết thảy vua chúa trần gian (x. Tv 83), nghĩa là vương quyền Ngài trải rộng trên mọi sự, khắp nơi ở thế giới, nhưng chỉ Ítraen có kinh nghiệm về quyền năng này. Vương quyền sẽ thành hiện thực qua Ðấng Messiah (Thiên sai); vì thế, dân Do thái đã chờ mong ngài xuất hiện trong phong cách của một nhà vua vinh hiển (x. Is 7: 10tt; 9: 1tt; Gr 23: 3-8; 30: 8-11; Ed 17: 22-24; Ðn 7: 9-14.22.27tt; v.v.).
Vì tình trạng chính trị xã hội phức tạp, người Do thái thường hiểu lầm về vai trò của Ðấng Thiên sai : họ mộng ước cho có được và hằng trông chờ một vị giải phóng chính trị, một nhà cách mạng xã hội: ngài sẽ khai sáng một thời đại thịnh vượng, làm cho Ítraen cai trị các dân ngoại. Những tiên tri đã sửa sai một phần nào quan niệm ấy và biểu trình về Ðấng Thiên sai với những đặc nét thiêng liêng hơn (x. Is 66: 1-3).
Nước Thiên Chúa (hay vương quyền) cũng mang tính chất cánh chung: Thiên Chúa sẽ phán xét tội lỗi (x. Gr 25: 15tt) và tiêu diệt ác quyền vô đạo (x. Ed 38-39), làm cho muôn dân thấy rõ vinh quang của Người (Ed 38: 23; 39: 21). Tiên tri Ðaniel cũng đã tiên báo là Nước Thiên Chúa sẽ đến sau khi hủy diệt các vương quốc trên trần thế (x. Ðn 2 và 7). Nghĩa là trước khi lập Nuớc Ngài, Thiên Chúa tẩy uế thế gian, đánh quỵ tội ác. Thiên Chúa sẽ thực hiện các sấm ngôn ấy như thế nào ? Ðức Giêsu sẽ trả lời.
c. Nước Thiên Chúa ở sứ điệp của Ðức Giêsu
Các văn bản Phúc âm trình thuật sự việc Ðức Giêsu rao giảng về Nước Thiên Chúa, và cho thấy chủ đề “Nước Thiên Chúa” là trọng tâm của công cuộc rao giảng ấy. Các Phúc âm nhất lãm đã dùng đến từ ngữ “Nước Thiên Chúa” 120 lần; trong khi đó các văn bản khác của Tân Ước chỉ dùng có 30 lần. Mt dùng từ ngữ “Nước Trời” 50 lần, và từ ngữ “Nước Thiên Chúa” 4 lần, [14] vì người Do thái thường nói như thế; rất có thể chính Ðức Giêsu đã nói như vậy. Nhưng từ thời sơ khai, các kitô hữu đã hiểu và dịch là “Vương quốc Thiên Chúa.” Danh từ basileía đã trở thành từ chuyên môn với ý nghĩa tổng quát tương tự như “sứ điệp Ðức Giêsu;” vì thế, Mt diễn đạt với những lối nói như: “Tin mừng của (hay là về) Nước Thiên Chúa” (x. Mt 4: 23; 9: 35; 24: 14), “lời về vương quốc” (x. Mt 13: 19), “các mầu nhiệm về Nước Trời” (x. Mt 13: 11), hoặc là: có những “học viên Nước Trời” như người ký lục nọ (x. Mt 13: 52).
Từ ngữ basileía toũ theoũ có hai nghĩa: vương quyền và vương quốc. Nghĩa thứ nhất sâu sắc hơn và được ám chỉ đến nhiều lần hơn. Ðức Giêsu loan báo vương quyền mà người Do thái chờ mong, chẳng hạn như Giuse Arimathêa (x. Mc 15: 43). Chính Ngài là sứ giả chính thức mang tin này đến (x. Lc 4: 18-21), là bình an, hạnh phúc và là tự do Chúa Giavê đã hứa cho trong thời của Ðấng “Thiên sai .”
d. Ngài là Ðấng Xức dầu (“Kitô”)
Dựa trên nền tảng Tân Ước, Kitô giáo đã hiểu rõ rằng sự việc Ðức Giêsu đến đã đánh dấu hồi mãn hạn đoạn thời gian mà các ngôn sứ báo trước. Gioan “tiền hô” đã dọn đường cho Chúa đến như các ngôn sứ đã từng tiên báo (x. Is 9: 1; 58: 8; Gr 31: 34; Ml 3: 1: x. Lc 1: 76-77), vì Ðức Giêsu là vua đã được hứa (x. Lc 1: 32-33). Lão ông Simêon nhận ra Hài nhi ấy là ơn cứu độ của Giavê, là ánh sáng để mạc khải cho dân ngoại, và là vinh quang của Ítraen (x. Lc 2: 30-32), tức là “Ðức Kitô của Chúa” (x. Lc 2: 26). Theo Mt, Ðức Giêsu là cùng đích của lịch sử cứu độ (x. gia phả, Mt 1: 1-17), nơi Ngài lời tiên tri ứng nghiệm (x. Mt 1: 21-23 = Is 7: 14: sinh bởi một người mẹ đồng trinh; Mt 2: 2-6 = Mk 5: 1: sinh ra tại Bêlem; Mt 2: 14-15 = Hs 11: 1: đi Ai cập và trở về; Mt 2: 18 = Gr 31: 15: than khóc tại Bêlem; Mt 2: 22-23 = Is 11: 1; 53: 2: được gọi là người “Nadarét,” v.v.). Như vậy là đã có thể thấy Giáo hội sơ khai hiểu về Ðức Giêsu như thế nào.
– Chính Ðức Giêsu cũng đã hiểu về mình như thế, và đã nói rõ với các người đồng hương của Ngài ở Nadarét (x. Lc 4: 21). Ngài ý thức là mình làm cho lời các tiên tri nên ứng nghiệm, chẳng hạn:
a) khi đuổi các kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ (x. Mt 21: 12tt và các đoạn song song; Is 56: 7; Gr 7: 11): hành động như thế là để chứng tỏ Ngài là Ðấng Thiên sai , và người Do thái đã hiểu ý nghĩa làm chứng của hành động ấy (x. Mc 14: 58);
b) khi rao giảng tại miền Galilê (x. Mt 4: 12-15; Is 9: 1-2);
c) khi đưa Tin mừng cho người nghèo và làm cho người mù được sáng,người què được đi... là chứng tỏ mình chính là “Ðấng phải đến,” (x. Mt 11: 3-6; Is 35: 5-6; 61: 1).
Ðặc biệt, các phép lạ đuổi trừ ma quỷ ra khỏi các người bị ám là dấu hiệu cho thấy Nước Chúa đã đến (x. Mt 12: 28); nên lưu ý là trong câu này, Mt dùng thành ngữ “Nước Thiên Chúa” chứ không phải “Nước Trời;” như thế có nghĩa là Mt và Lc 11: 20 đều dùng chung cùng một tài liệu gốc. Các đoạn trình thuật ngụ ý cho hiểu là vương quyền Thiên Chúa đang giao tranh với một vương quyền đối thủ, tức là với Satan; Mt thường nhắc đến sự kiện này (x. Mt 4: 1tt; 13: 36-43, v.v.). Giáo hội cũng sẽ phải đối đầu với kẻ thù ấy; vì thế, nên lưu ý là Ðức Kitô khử trừ ma quỷ nhân danh mình, còn những giáo sĩ Do thái chỉ có thể làm thế nhân danh Giavê (x. Mt 12: 27); hơn nữa, Ðức Giêsu cũng dùng quyền này ở miền dân ngoại (x. Mc 5: 1-20; 7: 24-30). Có lẽ câu “Ta thấy Satan như chớp nhoáng từ trời xuống” (Lc 10: 18) có nghĩa là các môn đệ cũng có thể trừ quỷ nhân danh Ðức Kitô, để chứng tỏ là “nước Satan” đang sụp đổ. Còn Vương quyền Thiên Chúa thì xuất hiện qua Tin mừng, trong bản thân Ðức Kitô, [15] cũng như trong nhóm các môn đệ (x. Lc 12: 32), và ở giữa những người nghe Ðức Giêsu giảng (x. Lc 17: 21). Dù sao thì Nước Chúa cũng sẵn có cho những ai cố gắng để bước vào (x. Lc 16: 16).
Theo một truyền thống dựa vào Malakhi 3: 22-23, thì tiên tri Êlia phải tới trước Ðấng Thiên sai ; thực sự, Ðức Kitô nói Êlia đã đến rồi (x. Mc 9: 13-15). Vậy, Ðấng Kitô mà dân Do thái đợi chờ cũng đã đến, và Nước Trời đã được sáng lập, còn vương quyền Thiên Chúa thì đang trải và đang tác động.
Theo lời dạy của Ðức Giêsu thì Nước Thiên Chúa hoạt động như thế nào? Trong các dụ ngôn, Ngài so sánh vương quyền Thiên Chúa với một hạt giống triển nở, lớn dần lên cùng với cỏ lùng; hoặc là tựa như hạt cải nhỏ xíu trỗi thành cây lớn; như men vùi trong bột; như kho tàng và viên ngọc quý dấu kín; như một mẻ lưới đầy cá tốt cá xấu; và như vậy cho đến tận thế (x. Mt 13). Trong lịch sử, Nước Chúa trải qua nhiều giai đoạn: trước tiên là mở rộng cửa mời đón dân Do thái; sau đó, Chúa kêu mời các dân ngoại, cũng là vì đại đa số trong dân Do thái từ chối không muốn vào (Mt 21: 33-46ss). Lịch sử Nước Chúa vẫn còn tiếp tục tiến phát quảng uyên...
Tóm lại: Nước Thiên Chúa hiện diện nơi Ðức Giêsu Kitô và sứ mạng của Ngài.
Tuy nhiên, Nước Thiên Chúa cũng có tính cách vị lai. Ðức Giêsu loan báo vương quyền Thiên Chúa đã gần đến (x. Mt 10: 7, Lc 10: 9: đối chiếu với Ðn 4: 8), với ý nghĩa là thời hạn đã mãn, lời đã ứng nghiệm, nhưng chưa hoàn thành. Vì thế, vẫn còn phải nguyện xin cho “Nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện” (Mt 6: 10), nghĩa là để vương quyền Thiên Chúa hoạt động “dưới đất cũng như trên Trời.” Trời và đất là hai bình diện của Nước Chúa (x. Mt 16: 19; 18: 18). Các tông đồ vẫn nuôi hy vọng Nước Trời sẽ đến sớm: mẹ của Giacôbê và Gioan đã tưởng như thế (x. Mt 20: 21); rồi chính Ðức Giêsu cũng đã nói với các thành viên Thượng hội đồng Do thái là họ sẽ thấy ngày ấy (x. Mt 26: 64), và dĩ nhiên là cả với các tông đồ nữa, vì thế các ngài cũng nghĩ như vậy (x. Lc 9: 27). Nhưng đồng thời, Ngài lại ám chỉ về một tương lai cánh chung, chẳng hạn: khi nói về “rượu mới” (x. Mt 26: 29; Mc 14: 25) là Ngài muốn ám chỉ tới “bữa tiệc cánh chung” mà các tiên tri (chẳng hạn như Is 25: 6) đã tiên báo. Nước Chúa sẽ trọn vẹn thành tựu trong ngày phán xét chung (x. Mt 25: 31-46), và lúc đó tội lỗi, ác quỷ và thần chết sẽ không còn quyền hành gì nữa (x. 1Cr 15: 24-26). Và trước đó phải trải qua biến cố kinh hoàng, mà Kinh Thánh gọi là “ngày của Chúa” (thí dụ 1Cr 1: 13; 1Ts 5: 2, v.v.), “ngày của Con Người” (Lc 17: 24. 26). Vậy, Nước Thiên Chúa chỉ thành tựu vào hồi thế mạt. Một số dụ ngôn (như: cỏ lùng, mười trinh nữ, nén bạc) hàm ý chỉ về một giai đoạn khá dài kể từ thời bấy giờ cho đến hồi cánh chung.
e. Mấy đặc tính của Nước Thiên Chúa
Như vừa thấy trên đây, Nước Thiên Chúa vừa hiện đại vừa vị lai; một đằng thì đến nhanh như chớp, đằng khác lại lớn chậm như hạt giống nảy mầm mọc lên; rồi lại vừa hoạt động ở dưới đất vừa sinh tồn vạn đại ở trên trời...
a) Phải nhận rằng Nước Trời là một mầu nhiệm và, vì thế, chỉ những kẻ thấp hèn bé mọn, chỉ những môn đệ mới được Thiên Chúa mạc khải cho biết (x. Mt 11: 25-27; Lc 10: 21-22; Mt 13: 11ss). Mầu nhiệm ấy đơn thuần là mầu nhiệm về Ðức Giêsu; vì vậy, ai rao giảng “Ðức Giêsu” là rao giảng vương quốc Thiên Chúa, ai gặp Ðức Giêsu là tìm thấy Nước Thiên Chúa (x. Mt 13: 16-17; Lc 10: 23-24), ai bỏ mọi sự vì Ðức Giêsu là thừa hưởng Nước Trời (x. Mc 10: 28-31ss).
b) Trong giai đoạn tiến phát tại thế, Nước Trời bao gộp cả người lành kẻ dữ (x. Mt 13: 24.30.37.44); nhưng trái lại, trong vương quốc Chúa Cha đã sửa soạn, thì chỉ còn lại số những người công chính (x. Mt 13: 43; 25: 34.41). Ðức Giêsu là đường dẫn lối. Cả hai giai đoạn lệ thuộc vào nhau: Nước Thiên Chúa hiện tại sẽ là Nước Trời tương lai; thái độ đối với giai đoạn trần thế là điều kiện thiết yếu định đoạt cho giai đoạn cuối cùng trong hồi cánh chung (x. Mc 10: 15).
c) Nước Thiên Chúa (vương quyền) vừa vô hình lại vừa hữu hình (x. Lc 17: 20-21). Vô hình vì mang chiều kích nội tâm: một khi có được kinh nghiệm về Thiên Chúa là Cha, ấy là lúc đã thực sự tiến vào trong lãnh vực Nước Trời; bước vào Nước Trời là mở lòng đón nhận vương quyền Thiên Chúa với tất cả tự do của mình, và khi đó chẳng còn cần phải “thờ phượng... trên núi này (Garizim) hay tại Giêrusalem, nhưng... trong tinh thần (hoặc Thần Khí) và sự thật” (Ga 4: 21-23). Vả lại, những ân huệ của Nước Chúa là thuộc lãnh vực thiêng liêng, vô hình: kêu gọi kẻ tội lỗi (x. Mt 9: 13; Lc 15), tha thứ tội ác (x. Mt 9: 1-6), ban đời sống mới (x. Ga 3: 15-16), v.v. Còn tính hữu hình thì lộ hiện trong chiều kích xã hội. Theo các dụ ngôn, Nước Chúa là một cộng đoàn loài người: “lưới bắt mọi thứ cá” (Mt 13: 47), ruộng có lúa mì và cỏ lùng (x. Mt 13: 24tt), tiệc cưới có nhiều loại khách (x. Mt 22: 1tt). Phúc âm Gioan thì giới thiệu qua hình ảnh của một đoàn chiên (x. Ga 10: 1-16), và nói rõ là cần phải đón nhận ơn Chúa qua một nghi thức là thanh tẩy, mới được gia nhập Nước Trời (x. Ga 3: 3).
Khác với niềm hy vọng của dân Do thái, vương quyền Thiên Chúa không có tính cách chính trị, không cạnh tranh với những chế độ loài người (x. Mt 22: 21ss: Rm 13: 7); thật ra, vương quyền ấy không thuộc về thế gian này (x. Ga 18: 36), và không can thiệp vào trong các vụ tranh chấp trần thế (x. Lc 12: 14).
f. Nuớc Thiên Chúa và Giáo hội
Hiện giờ, các thần học gia đang bàn luận sôi nổi về chủ đề này. [16] Một đằng, vương quyền có nhiều chiều kích huyền vi không hoàn toàn đồng nhất với các đặc tính của Giáo hội. Ðằng khác, Giáo hội và Nước Thiên Chúa không phải là hai thực thể hoàn toàn xa lạ với nhau. Vaticanô II xác quyết rằng: “Hội thánh tức là Nước Chúa hiện diện cách mầu nhiệm ngay ở đời này” (LG 3). Trước kia, phía công giáo có khuynh hướng đồng nhất hóa Nước Chúa với Giáo hội công giáo (chẳng hạn như trong thông điệp Mystici Corporis của Ðức Piô XII), và đa số những giáo trình Giáo hội học thời trước Vaticanô II thường bảo vệ luận thuyết ấy. Dù thế, thái độ tâm lý của phía công giáo vẫn là khách quan, nên thường phiên dịch từ basileía bằng từ “vương quốc”, tức là một xã hội cụ thể đang hiện diện trước mắt. Quan điểm này không sai, nhưng cũng không hoàn toàn đầy đủ, bởi một phần nào đó, không nói lên được hết chiều sâu tiềm tàng của thực tại vương quốc.
Còn phía “giới phê bình” và Tin lành, thì chủ trương cho rằng Nước Thiên Chúa là hoàn toàn siêu việt vô hình. Họ thường dùng từ “vương quyền” để dịch từ basileía và nhấn mạnh đến chiều kích thần khởi: vương quyền là hoạt động của quyền tự do tối cao của Thiên Chúa đối với mỗi người. Vương quyền thuộc về thời vị lai, cánh chung. Giáo hội là một “biến cố” hơn là một “tổ chức,” [17] nên không thể đem đồng nhất hóa với Nước Chúa được.
Về tương quan giữa Tin mừng Ðức Giêsu và Giáo hội, quan niệm điển hình của giới phê bình và phái duy tân (modernism) cũng như của phía Tin lành tự do (Liberal Protestantism) có thể được tóm gọn lời mỉa mai sau đây của A. Loisy : “Ðức Giêsu loan báo vương quyền và Giáo hội đã tới,” [18] tức muốn nói là Ðức Giêsu loan báo một điều, và đã xẩy ra một điều khác.
Hiện nay, Giáo hội học đang cố nêu rõ một hướng đồng quy, có khả năng giữ được quân bằng giữa hai thái cực. Phải chấp nhận là Nước Thiên Chúa và Giáo hội có quan hệ mật thiết với nhau; nhưng đồng thời, Giáo hội và Vương quốc của Thiên Chúa chắc hẳn cũng có nhiều khía cạnh khác nhau. Công đồng Vaticanô II đã chứng kiến đà chuyển hướng ấy: trong số 8 của lược đồ về Giáo hội, đã có câu khẳng định là: Giáo hội công giáo Rôma là Giáo hội duy nhất Chúa Kitô sáng lập. Nhiều nghị phụ đã phản ứng phê bình lối diễn đạt như thế, khiến câu ấy đã phải đổi thành: “Haec Ecclesia, in hoc mundo ut societas constituta et ordinata, subsistit in Ecclesia catholica” (LG 8), nghĩa là: “như một xã hội được thiết lập tổ chức quy củ trong thế giới này, Giáo hội ấy tồn tại trong Giáo hội Công giáo.” Nói cách khác, Giáo hội của Ðức Kitô không chỉ là Giáo hội Công giáo, Nước Thiên Chúa không chỉ giới hạn ở trong Giáo hội Công giáo Rôma mà thôi.
Nhưng Giáo hội Rôma vẫn “tiếp tục nối dài” Nước Thiên Chúa mà Ðức Giêsu đã rao giảng, nghĩa là Vương quốc Ðức Kitô đã khai mở vẫn còn tồn tại trong Giáo hội, cùng tiếp tục phát triển trong và qua Giáo hội. Giáo hội (hữu hình hay cơ cấu) khiêm tốn thú nhận vẫn có tội lỗi ở trong mình, và ở ngoài mình vẫn có ân sủng. Giáo hội không là (hoàn toàn đồng nhất với) Nước Thiên Chúa, nhưng lại phục vụ Nước ấy. Công đồng Vaticanô II gọi Giáo hội là bí tích của Vương quyền Thiên Chúa.
Trong Cựu Ước, Vương quyền Thiên Chúa được thể hiện ở giữa dân Chúa, nghĩa là có một dân nhìn nhận và tuyên xưng Thiên Chúa là vua của họ (đã có vua tất phải có dân). Ðức Giêsu giảng về Vương quyền Thiên Chúa, tất cũng đã chuẩn bị một dân mới; như dân “cũ” đã có, thế tất dân “mới” cũng vậy.
3. Ðức Giêsu khai sinh dân mới
Nói đến “dân mới” thì có thể hiểu được hai cách: dân “mới” thay thế dân “cũ” (tức dân Dothái không còn là “dân Thiên Chúa nữa”), hoặc dân “mới” là dân “cũ” mở rộng (tức Ítraen vẫn còn là dân Chúa, nhưng các dân ngoại đã được thu nhận hay tháp ghép vào). Khuynh hướng chung trong thần học hiện nay đang thiên về lập trường thứ hai. [19]
a. Ðức Giêsu kêu gọi môn đồ: “Nhóm 12” và ý nghĩa
Sau khi đã nghe những gì Ðức Kitô nói, tiếp theo đây là nhìn những gì Ngài đã làm. Ðáng được chú ý trước hết là sự việc Ðức Giêsu triệu tập một nhóm môn đồ.
Sau đây là những sự kiện lịch sử không chối cãi được: a) Ðức Giêsu triệu tập các môn đồ; b) từ giữa họ, Ngài đã chọn nhóm Mười hai; c) Ngài huấn luyện họ cách đặc biệt; d) Ngài chia sẻ với họ quyền năng của mình và phái gửi họ đi rao giảng nhằm tiếp tục thực thi cùng một sứ mạng Ngài đã lãnh nhận.
– Ðức Giêsu chịu nhận để người ta gọi Ngài là “thầy.” Thời ấy, ở Palêttin, một vị thầy thường thu tập một số môn đồ, chẳng hạn như Gioan Tẩy giả (x. Lc 5: 33), hay là những Rabbi biệt phái (x. Mt 22: 16). Những môn đệ này sống với thầy mình, học hỏi và truyền tụng giáo lý của thầy; có khi họ lập một cộng đoàn riêng biệt như các “tiên tri” xưa (x. 1V 18: 4). Phúc âm nhắc đến các môn đệ của Ðức Giêsu 170 lần; có kẻ theo Ngài trong âm thầm kín đáo như Giuse Arimathêa và Nicôđêmô (x. Ga 19: 38-39), có lẽ các ông là người biệt phái; có người làm môn đồ công khai; Luca nói về “đám đông môn đồ” (x. Lc 6: 17); có một ít người đã bỏ mọi sự để theo Ngài (x. Mc 10: 28), và cũng có những kẻ trong họ đã bỏ Ngài (x. Ga 6: 66).
– Giữa đám đông môn đồ, Ngài đã chọn một số đặc biệt. Luca nói về 72 môn đồ Ðức Giêsu phái đi truyền giáo. [20] Có một nhóm 12 môn đồ đặc biệt mà Tân Ước kê rõ từng tên gọi một (x. Mt 10: 2-4; Mc 3: 16-19; Lc 6: 14-16; Cv 1: 13). Bốn danh sách này đều có thứ tự dễ nhớ: 12 tên gọi chia làm ba nhóm, mỗi nhóm bốn người, và mỗi người luôn luôn ở trong cùng một nhóm; mỗi nhóm trong bốn nhóm ấy luôn luôn bắt đầu bằng Phêrô, Philiphê và Giacôbê con của Alphêô, làm như muốn cho thấy là trong cộng đồng kitô sơ khai 12 vị ấy rất nổi tiếng và đóng giữ một vai trò rất quan trọng đối với Giáo hội. Mc luôn luôn gọi nhóm này là “Nhóm Mười Hai” (hoi Ðốđêka), coi đó như là một tên riêng ngay từ lúc đầu. [21] Rất có thể là trong Tân Ước, một phần nào đó, Nhóm 12 đã được “thần tượng hóa” (lý tưởng hóa), nhưng sự việc Nhóm hiện hữu và hoạt động vẫn là một dữ kiện lịch sử chắc chắn.
b. Nhóm Mười Hai: Hoi Ðốđeka
Về phương diện lịch sử, có điều chắc chắn này là Ðức Giê-su đã chọn một nhóm môn đồ có tên là hoi đốđeka = “những người trong số mười hai”; văn bản làm chứng từ xưa nhất là câu 1Cr 15: 5 (viết vào khoảng năm 51). [22] Nhà chú giải J. Dupont nhận định rằng: “Ðiểm thứ nhất và quan trọng nhất là phải chấp nhận mà không còn có thể nghi ngờ gì nữa về sự việc Ðức Giêsu đã kiến lập tập đoàn 12 môn đồ.” [23] Bốn Phúc âm đã nhắc ít là 30 lần đến “mười hai” môn đồ, và sách Công vụ Tông Ðồ thì tường thuật rõ về hoạt động của họ. Ðiều đáng lưu ý là Phúc âm nói về Giuđa, tên phản bội, là một phần tử của nhóm mười hai (x. Mt 26: 14t; Mc 14: 10. 20.43; Lc 22: 3.47; Ga 6: 71). Giáo hội đã không thể nào bịa chuyện như thế được, nhưng đã nhìn nhận như là một sự kiện hiển nhiên, dù là phũ phàng và thật bất lợi cho cộng đồng Giáo hội sơ khai. [24]
Mc 3: 13-19 kể lại chuyện Ðức Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ ; đó là một văn kiện các nhà chú giải gọi là “cố cựu;” tác giả đoạn trình thuật đã dùng một thành ngữ lạ thường bằng tiếng Hy lạp là: epoíêsen đốđeka (“đã làm 12”) thuộc văn thể Sêmit, tức là khó mà Mc có thể tự động dựng đứng lên được. [25] Một số thủ bản Mc thêm vào câu 14 lời xác định này: “và gọi họ là ‘tông đồ’,” nhưng hình như câu ấy chép lại Lc 6:13. Mc còn nói rõ là sự việc đã xảy ra ở “trên núi;” có thể là để làm cho liên tưởng tới núi Sinai, nơi Giavê thành lập dân Thiên Chúa. Câu “Gọi lại với Người những kẻ Người muốn chọn” nêu bật ý chí tự do như lúc sáng tạo: sở dĩ có “Mười Hai” là chỉ vì Ðức Giêsu đã muốn như thế. Những lời “đã làm” gợi lên ý niệm sáng tạo như đọc thấy trong sách Sáng thế; còn con số 12 chắc hẳn là để tượng trưng cho 12 chi tộc Ítraen. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rõ là tuyệt nhiên Ðức Giêsu không nuôi một hậu ý chính trị nào cả. Và chỉ có thể kết luận rằng Ngài đã nghĩ về một “Ítraen mới.”
– Mục đích của nhóm 12 là “để ở với Ngài và để phái họ đi rao giảng” (Mc 3:14). Ðiều này có nghĩa là nhóm “12” được phối hợp với Ðức Giêsu và tham dự vào trong công tác của Ngài; lịch sử sau này cũng đã minh chứng điều đó.
Theo Phúc âm Mc, phần lớn thời gian trong những năm Ðức Giêsu sống “công khai” đã được dành riêng cho “nhóm môn đồ:” trong số 671 câu của sách Mc, thì đã có 498 câu (tức 76%) nói đến những sự việc liên hệ tới các môn đồ (mathêtai). Và Mc cho thấy rõ nhóm l2 là một nhóm riêng biệt, khác với “đám đông” (x. Mc 3: 9; 5: 31; 8: 34; 9: 14; 10: 46). Nhóm này theo Ðức Giêsu khi Ngài ở một mình (x. Mc 4: 10; 8: 10; 9: 33, v.v.); lúc Ngài giảng dạy, họ ngồi chung quanh Ngài (x. Mc 3: 34 so với Mt 12: 49). Cách sống chung này mật thiết hơn cả mối thân tình thầy-trò, vì họ phải bỏ việc làm và gia đình (x. Mc 1: 19-20), bỏ tất cả (x. Mc 10: 28-29) để theo Ngài. Ðức Giêsu đặt họ vào trong tình trạng của “thời cuối cùng” (Mc. 12: 25) và mối liên đới chặt chẽ với Thầy mình đến nỗi, họ cùng chịu thử thách với Ngài (x. Lc 22: 28).
Như thế Ðức Giêsu đã lập một cộng đoàn mà Ngài là đầu, để cùng chia sẻ sứ mạng và số phận của Ngài, và Ngài trao ban cho nhiều đặc quyền theo tư thế là một cộng đoàn.
– Ở cùng Ðức Giêsu là điều kiện để được phái gửi đi rao giảng (x. Ga 16: 27). Lịch sử chứng tỏ rõ là chính Ðức Giêsu đã tuyển chọn các môn đồ, huấn luyện họ, rồi phái gửi họ đi rao giảng cùng một sứ điệp như Ngài. Ðức Giêsu đã đào tạo các môn đệ rất cẩn thận: chỉ mình họ mới được trình bày cho biết về các mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa (x. Mc 4: 11), và Ðức Giêsu đã giải nghĩa các dụ ngôn cho riêng họ (x. Mc 4: 34) và những gì họ không hiểu (x. Mc 7: 17-19; 8:17t), đặc biệt là những điểm mới mẻ trong giáo lý (x. Mc 10: 10t. 42; 13: 3t). Ngài khuyên họ đi riêng đến một nơi yên tĩnh (x. Mc 6: 31). Biến cố chủ yếu là bữa tiệc ly Ngài cử hành riêng với nhóm 12 (x. Mc 14: 17tt), và chỉ có họ mới được biết đến cuộc thương khó (x. Mc 8: 31; 9: 31; 10: 32t). Chắc hẳn là Ðức Giêsu đã chuẩn bị họ cho tương lai, tương lai của sứ mạng Ngài. Mc 3: 14 nói rõ: Ðức Giêsu muốn sai các môn đồ rao giảng; Mt 4: 19 cũng đã ghi lại ý tưởng tương tự: “Ta sẽ cho các ngươi nên ngư phủ bắt người;” và Gioan cũng đã nhắc lại lời tâm sự của Ðức Giêsu: Ta đã chọn các bạn “ngõ hầu các bạn ra đi và sinh được hoa trái” (Ga 15: 16). Trong khi huấn luyện họ cách riêng, Ngài cũng cho họ biết chủ đích của việc đào luyện ấy: “Những điều thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày...” (Mt 10: 27); Gioan giải thích: điều đó có nghĩa là phái gửi họ đi vào giữa thế gian để nhiều người nhận biết và tin vào Ngài (x. Ga 17: 18-20).
Tóm lại: Ðức Giêsu đã chọn một nhóm đặc biệt để phái gửi họ đi như những người đại diện Ngài (x. Mt 10: 40). Nói cách khác, Ngài quan niệm quan hệ của nhóm môn đồ với Ngài giống như mối liên hệ giữa Ngài với Cha Ngài (x. Lc 10: 16). Vì thế, những ai không đón nhận họ, sẽ phải chịu trả lẽ trước tòa Thiên Chúa (x. Mt 10: 14-15). Nếu Ðức Giêsu chia sẻ sứ điệp và quyền năng của Ngài với nhóm môn đồ thì chính là để họ hợp tác với Ngài trong công trình xây dựng Vương quyền Thiên Chúa. Ðiều ấy còn muốn nhắn gửi những gì đến với chúng ta là những kitô hữu đang sống giữa thế giới ngày nay?
c. Một vài vấn nạn
Ðức Giêsu đã hành động như thế lúc sinh thời; nhưng sau khi Ngài chết thì sao ? Ngài có nghĩ về một tương lai, nhất là một tương lai xa vời hay không ? Chỉ có thể trả lời các câu hỏi then chốt này lần bước dõi theo nhiều giai đoạn.
a. Trước hết, có một số điều cần lưu ý về từ apóstolos (sứ đồ, sứ giả, phái viên): mang ý nghĩa chỉ về người được sai đi phái gửi đi. Lc 6: 13 nói là Ngài “chọn lấy mười hai ông và gọi là tông đồ ;” còn Mc thì chỉ gọi họ là “sứ đồ” sau khi đã được phái gửi đi (x. Lc 6: 30). Khoa chú giải ngày nay do dự không rõ lúc sinh thời Ðức Giêsu có dùng đến tên gọi ấy hay không. [26] Một số nhà chú giải, cả công giáo lẫn tin lành, cho là Ðức Giêsu đã dùng danh từ sứ giả với ý nghĩa tương tự như từ shaliah trong tiếng Do thái. [27] Nếu vậy, Ðức Giêsu đã quan niệm nhóm tông đồ như là những sheluhim của Ngài, những người thay mặt Ngài. Giới Do thái có những “sứ giả” trong lãnh vực pháp luật, còn trong phạm vi tôn giáo thì dường như chưa thấy có trước thế kỷ 2. Dù sao, Ðức Giê-su cũng đã quan niệm nhóm tông đồ theo ý nghĩa chức năng hơn là chức vụ.
b. Các Phúc âm nhất lãm có đủ dấu chứng để giúp nhận ra ý định của Ðức Giêsu. Trước tiên, việc “sáng lập” nhóm 12 được Ðức Giêsu coi là một việc quan trọng: Lc 6: 12 kể lại sự việc Ðức Giêsu cầu nguyện suốt đêm trước khi chọn các ông; đoạn Mt 10: 16tt ghi lại bài giảng về sứ mạng truyền giáo, cho thấy là Ðức Giêsu đã muốn ám chỉ đến một trạng huống khác hẳn với tình cảnh thời bấy giờ: các môn đồ sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa... các dân ngoại... ; chắc hẳn là đoạn này muốn ám chỉ đến “bối cảnh cánh chung” như sẽ bàn tới sau. Nhưng các câu Mt 5: 11-12 quả là chính lời Ðức Giêsu nói về một thời tương lai, thời các môn đồ sẽ bị bách hại; thời mà, một khi Ðức Giêsu đã ra đi, họ sẽ phải “ăn chay” (Mt 9: 15; Lc 5: 35). Kết luận: quả thật Ðức Giêsu đã nghĩ về tác vụ các môn đồ sẽ tiếp tục thực thi sau cuộc đời dương thế của Ngài, nhằm phục vụ Nước Chúa.
c. Thực ra, chính Ðức Giêsu đã quả quyết là trước thời tận cùng “Tin mừng về Nước Thiên Chúa sẽ được loan báo trên khắp thế giới” (Mt 24: 14). Ðã đành, quan niệm về “thời cánh chung” khá phức tạp và không rõ cho mấy. Trong bối cảnh ấy, “nhóm 12” xuất hiện như là “số sót” của dân Ítraen. Ý niệm này (Pháp ngữ gọi là reste, Anh ngữ là remnant) giữ một tầm trọng yếu đặc biệt trong tư tưởng các tiên tri. Khi mà đa số dân Ítraen làm như bỏ Chúa để theo các tôn giáo khác, thì các tiên tri đã bắt đầu nói về một nhóm nhỏ vẫn tiếp tục trung thành, và vì “số sót” ấy lòng trung tín của Giavê sẽ mãi xót thương toàn dân. Thời tiên tri Êlia đã đọc thấy ý niệm ấy rồi (x. 1V 19: 18). Amốt cũng đã ám chỉ đến điều ấy (x. Am 3: 12; 4: 11; 5: 15). Isaia thì nhắc đi nhắc lại “số sót” ấy như là một điệp khúc trong các bài giảng của ngài (x. Is 1: 9; 4: 3; 6: 13; v.v.). Còn tiên tri Êdêkiel thì coi họ như là một Ítraen mới, tái sinh từ một đống xương khô (x. Ed 37: 12), được Thiên Chúa ban cho một giao ước mới. Cha R. de Vaux viết: “Trước hết, ‘số sót’ ấy là những ai thoát được hiểm nguy thời bấy giờ (x. Am 9: 9; Is 37: 30-31; Gr 24: 5). Nhưng, ở phía sau hậu cảnh của những biến cố thời ấy, còn nhìn thấy được viễn cảnh của đấng Messia: trong đó, ‘số sót’ là Ítraen mới. Ðã được định cư nơi đất hứa, họ làm thành một cộng đoàn thánh, sống theo tình yêu với lòng kính sợ Giavê, và được Ngài chúc phúc (x. Is 4: 2; 28: 5; Mk 5: 6-7). Hơn nữa, còn có thể thoáng thấy được một viễn cảnh quảng hàm hơn, bao quát hơn, tức là không chỉ gồm có Ítraen mới mà thôi, nhưng còn cả Ítraen thiêng liêng nữa, tập hợp cả những người dân Do thái sống rải rác khắp nơi (x. Is 28: 5; 31: 6; Ed 37: 20) lẫn hết thảy mọi người dự tòng đến từ các dân ngoại (x. Is 24: 14-16; 45: 14-15; 49: 6, vv)...” [28] Số sót ấy là như cốt lõi “giản yếu” của toàn thể dân Ít-raen: trong đó, lời hứa và niềm hy vọng mà Ítraen hằng ấp ủ, vẫn tồn tại vững bền.
Trong Phúc âm, nhóm tông đồ dần dần mặc lấy những đặc nét phác tả hình ảnh của “số sót.” Lúc bắt đầu giảng dạy, Ðức Giêsu kêu gọi toàn dân hối cải trở lại cùng Thiên Chúa. Không được ứng đáp thích đáng, Ðức Giêsu đã đặc biệt chú tâm vào nhóm môn đồ: tạm gác số lớn để chuẩn bị cho một số nhỏ có đủ điều kiện gánh vác những trách vụ cần thiết trong tương lai. Ða số có thể mất, một số ít người được chọn (x. Mt 22: 14). Các môn đệ là “đàn chiên nhỏ” (Lc 12: 32) trung thành trong những lúc thử thách (x. Lc 22: 28), biết sống tin tưởng (x. Ga 6: 68-70; 16: 27). Vì thế họ trở nên mô mẫu hoài bão của Ítraen mới, tượng trưng cho 12 chi tộc... Có nhìn theo viễn tượng ấy, thì mới có thể hiểu được tại sao Ðức Giêsu đã chú tâm đào tạo họ, chia sẻ cho họ quyền năng của Ngài, phái gửi họ đi rao giảng sứ điệp của Ngài, v.v. Mt 19: 28 và Lc 22: 28-30 đã ghi lại lời Ðức Giêsu hứa ban cho “nhóm 12,” 12 ngai tòa để xét xử 12 chi tộc Ítraen. Nghĩa là Ðức Giêsu muốn chia sẻ với nhóm ấy chức năng hay năng quyền của chính Ngài vào hồi cánh chung, tức là lúc Ngài thiết lập Nước Thiên Chúa ở dưới đất.
Tóm lại: Ðức Giêsu đã chọn môn đồ; giữa các môn đồ, Ngài tuyển chọn 12 vị làm một nhóm đặc biệt; huấn luyện họ cách đặc biệt, và dành cho họ một vai trò giống như vai trò của Ngài trong Ítraen mới. Lúc sinh thời Ðức Giêsu đã dự kiến như thế nào về tương lai ấy? Ðây là một câu hỏi tế nhị.
4. Ý thức của Ðức Giêsu và Giáo hội
Ðó là một trong những chủ đề đang làm đối tượng bàn cãi rất sôi nổi trong Kitô học. Ở đây, chỉ xin bàn đến những điểm có liên quan với Giáo hội học.
– Nếu Ðức Giêsu đã tự xưng mình là “Con người,” [29] thế tất cũng nghĩ đến Ðn 7: 13-14, và việc đoàn họp “dân chư thánh:” ý niệm này tất sẽ dễ dàng dẫn dần đến ý niệm “Hội thánh.”
– Hẳn là Ðức Giêsu đã hiểu về mình trong ánh sáng của Cựu Ước. Có khi Ngài cư xử như Ðavít (x. Mc 2: 23-28) và được gọi là “con của Ðavít ” (Mc 10: 47; Mt 21: 9,v.v.), là tước hiệu gợi ý chỉ về Ðấng Messia (x. Mc 12: 35t). Ngài cũng nói rõ mình lớn hơn Salomon (x. Mt 12: 42). Trong bài giảng trên núi, Ðức Giêsu xử thế như là Môsê mới – lớn hơn Môsê! – (x. Mt 5: 17-48). Thế nên, Ngài cũng đã nghĩ đến vai trò của mình đối với Ítraen, một Ítraen mới.
– Khi Ðức Giêsu chọn “12 sứ đồ,” tất Ngài đã nghĩ đến 12 tổ phụ của Ítraen mới, tức là “Dân tộc thiên sai,” mà Ngài sẽ xây trên nền “Ðá” (Phêrô).
– Ðức Giêsu ý thức mình là “Ðấng phải đến” (Mt 11: 3t), Ðấng khai mở “thời viên mãn” (Mc 1: 15), “Ðấng được Xức dầu” (Lc 4: 16t), v.v.; nhưng Ngài không nói rõ mình là Ðấng Messia, vì ý niệm của công luận về “Messia” sai lầm. Ngài trừ quỷ nhân danh Thần Khí, nên Ngài biết Nước Trời đến rồi (x. Mt 12: 28). Nếu thế thì Ngài không thể không nghĩ đến dân tộc mới và vai trò của mình cũng như của nhóm “hợp tác viên” Ngài đã chọn trong hoàn cảnh mới ấy. Nhưng về mặt con người hay nhân tính, tư tưởng của Ngài cũng đã trải qua cả một tiến trình phát triển:
Các nhà chú giải nhận thấy là lúc đầu, Ðức Giêsu tỏ vẻ lạc quan nhiều, và hân hoan tuyên bố một sứ điệp thật là “Tin mừng:” đây, Nước Chúa đã đến gần (x. Mc 1: 15); vì thế, các môn đồ phải tức tốc đi rao giảng, không còn chần chờ mất thì giờ được nữa, và cũng không được đi về phía các dân ngoại (x. Mt 10: 5tt). Nhưng người ta không chịu trở lại, cũng chẳng chịu tin vào Ngài... một điều gì đó đã xảy ra: các nhà chú giải gọi biến cố đó là vụ “khủng khoảng ở Galilê.” Các Phúc âm nhất lãm và Gioan đồng ý: sau phép lạ bánh hóa nhiều, dân chúng muốn chọn Ðức Giêsu làm vua (x. Ga 6: 15). Ngài từ chối và dân chúng cũng lánh xa Ngài; nhiều môn đồ bỏ Ngài (x. Ga 6:66) vì không hiểu Ngài. Người ta còn tìm cách ném đá (x. Ga 8: 59) và bắt Ngài (x. Ga 10: 39); có lẽ Ngài bị trục xuất khỏi Hội đường (sinagoga), tựa như là bị tuyệt thông vậy; còn việc đi xuống Giuđêa đã trở thành nguy hiểm (x. Ga 11: 8).
Dù trước kia Ngài đã cấm các môn đồ đi về các miền dân ngoại, thì bây giờ chính Ngài cũng phải đi để tạm ẩn giấu (x. Mc 9: 30). Khi Ngài ở vùng dân ngoại là Cêsarêa, một biến cố quan trọng đã xẩy ra: Simon tuyên xưng đức tin vào Ngài, tin nhận Ngài là Ðấng Kitô, và Ngài đã đáp lại với lời hứa sẽ xây dựng Giáo hội Ngài trên “Ðá” Phêrô (x. Mt 16: 16tt). Lúc Ðức Giêsu nếm phải mùi thất bại trần thế, lúc thập giá ló dạng nơi chân trời đời ngài, thì cũng chính là lúc từ ekklesía xuất hiện trong Phúc âm, và Ðức Giêsu tập trung năng lực vào việc huấn luyện đặc biệt cho nhóm nhỏ các môn đồ. Bấy giờ Ðức Giêsu ý thức về sự việc sứ mạng mình phải được chu toàn trong những điều kiện khó khăn mà người “Tôi tớ Giavê” phải sống qua, như tiên tri Isaia đã tiên phác. [30] Thật ra, Mt 12: 18-41 đã từng áp dụng Is 42: 1-4 và 49:1 cho Ðức Giêsu rồi. Vai trò của Tôi tớ Giavê là cứu vớt dân Ítraen, nhưng đồng thời làm “ánh sáng... mang ơn cứu độ đến cho muôn dân” (Is 49: 6); con đường phải đi là lặng thinh chịu khổ cho đến chết (x. Is 50: 4tt; 51: 1tt).
Ðức Giêsu không mảy may nghi ngờ về sứ mạng của mình. Nếu toàn dân Ítraen không theo Ngài, thì ít là một nhóm nhỏ đã trung thành với Ngài; vì thế, tương lai của sứ mạng ấy (là sứ mạng Chúa Cha trao phó và vì thế không thể nào không thành tựu) phải được thực hiện với và qua họ. Có lẽ buổi đầu, Ðức Giêsu chưa thấy rõ phải chu tất sứ mạng đó như thế nào và dưới những hình thức nào; nhưng Ngài tin tưởng vào Chúa Cha: nếu Chúa Cha đã muốn dùng “phương pháp” như thế (thập giá), thì thế nào kế hoạch của Cha cũng sẽ thành công. Ngài gieo giống, rồi Thần Khí sẽ làm cho mọc lên và trổ sinh hoa quả.
Hai Vấn Nạn Ðặc Biệt
1. Vấn đề cánh chung
Ðó là một vấn đề quan trọng trong Giáo hội học. [31] Vấn nạn cốt tại ở điểm này: theo Phúc âm, Ðức Giêsu nghĩ là vương quyền Thiên Chúa đã đến gần kề, nghĩa là chẳng bao lâu nữa một biến cố chung quyết sẽ kết thúc lịch sử trần thế. Nhưng hình như Ngài đã không nghĩ đúng. Nếu quả là thế thì Ngài không phải là Ðấng Thiên sai, không phải là Con Thiên Chúa, và chắc hẳn Ngài đã không có một dự án nào cho tương lai...
Ðức Giêsu đã nói về sự việc “Nước Thiên Chúa” sắp đến. Những lời khó giải thích nhất là ba câu sau đây: Mc 9: 1; 13: 30; Mt 10: 23; và có tác giả còn kể thêm các câu: Lc 10: 23; Mt 16: 28; 26: 64ss. Thử hỏi các sấm ngôn ấy quả đã ứng nghiệm hay không?
– Các tác giả trong Tân Ước đã quan tâm đến vấn nạn ấy. Họ nhận ra là “ngày ấy” (gọi là “ngày của Chúa,” “quang lâm,” v.v.) không đến sớm như nhiều tín hữu kitô thời đó đã chờ đợi: điều này được gọi là “vấn đề trì hoãn.” Thư Do thái trích dẫn tiên tri Khabacúc nói rằng: “Chỉ còn ít lâu nữa, một ít thôi, Ðấng phải đến sẽ đến, Người sẽ không trì hoãn (ou khronísei)” (Dt 10: 37). Ðộng từ này cũng xuất hiện trong Mt 24: 48: đầy tớ gian ác nghĩ ‘chủ mình sẽ về trễ’ (khronízei) (xem Lc 12: 45) và trong dụ ngôn về mười trinh nữ: “chú rể đến chậm...” (Mt 25: 5). Mối nguy cho Giáo hội là các tín hữu có thể ngã lòng, “thiếp đi”... và bị “thiếu dầu.” Vì thế, thánh Phêrô đã phải trấn an kitô hữu rằng: “Chúa không chậm trễ... nhưng đối với Ngài, một ngày như thể là ngàn năm” (2Pr 3: 8-9). Cả đến hiện giờ, Nước Chúa cũng vẫn chưa thấy đến: như thế thì sao ? Có phải Giáo hội đã tự đánh tráo mình thay thế cho niềm ảo vọng ấy không ?
– Trí khôn nhân tính của Ðức Giêsu không biết hết tất cả; Ngài nói rõ là mình không biết về “ngày ấy” (Mc 13: 32). Như một con người thật sự, Ðức Giêsu cảm nghiệm về Thiên Chúa, rồi giải thích kinh nghiệm ấy nhờ những phạm trù sẵn có (nghĩa là quan niệm Do thái về tôn giáo). Vì thế, khi Ngài cảm thấy Chúa Cha sẽ can thiệp, thì Ngài cắt nghĩa việc ấy như các tiên tri đã nói (thí dụ: Is 13: 6; Gr 48: 16; Ed 7: 1-13; v.v.). Nhưng Ngài cũng thừa biết “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền...” (Lc 17: 20); chỉ Chúa Cha mới biết ngày giờ; vì vậy, cần phải sẵn sàng (x. Mt 24: 44; Lc 12: 40...), phải canh thức (x. Mt 24: 42; 25: 13: Mc 13: 33, v.v.), vì ngày Chúa sẽ đến như chớp (x. Lc 17: 24; Mt 24: 27...). Lúc đầu Ðức Giêsu đã có thể hy vọng vương quyền đến sớm, ngay khi Ngài còn sống; vì thế Ngài đã tức tốc sai phái các môn đồ đi rao giảng. [32] Sau khi việc rao giảng tại Galilê gặp phải trở ngại nếu không nói là thất bại, Ngài bắt đầu ý thức là có thể mình sẽ phải chịu chết như Tôi tớ Giavê, và đã có thể hy vọng rằng thế nào Chúa Cha cũng sẽ thành công và làm cho vương quyền thành hiện thực (bằng cách nào Ngài chưa rõ). Ðức Giêsu có trực giác đúng về sự kiện này: Chúa Cha sẽ sớm can thiệp để hoàn tất công cuộc cứu độ; và điều đó đã thật sự xẩy ra trong mầu nhiệm Phục sinh. Còn biến cố cánh chung ấy sẽ xẩy ra như thế nào: như được trình tả qua những hình ảnh khủng khiếp của thể văn khải huyền? Các tác giả ngày nay quan niệm như thế, và một phần nào dựa theo lời của các ngôn sứ tiên báo về “ngày của Giavê,” chính Ðức Giêsu cũng đã nói như vậy.
– Hẳn là, dựa theo quan niệm Do thái, Giáo hội sơ khai đã mong chờ một biến cố kỳ diệu và tưởng là biến cố ấy đã bắt đầu với ngày Hiện xuống (x. Cv 2: 16tt). Khi Chúa lên trời, cộng đoàn kitô hữu thời ấy vẫn nghĩ là vương quyền sẽ đến ngay trong thời họ (x. Cv 1: 6); họ lập lại nhóm 12 (x. Cv 1: 15tt: chọn Mátthia thay thế cho Giuđa), và giới hạn hoạt động ở giữa dân Do thái mà thôi. Cả đến khi các tông đồ đã sáng lập những cộng đoàn Giáo hội giữa các dân ngoại, các kitô hữu cũng vẫn còn chờ đợi và xác tín là “ngày của Chúa” sẽ sớm đến: biến cố cơ bản của cộng đồng là bữa tiệc Tạ ơn (Thánh Lễ) được cử hành “cho đến khi Chúa lại đến” (1Cr 11: 26), và Phaolô đã hy vọng sẽ còn sống cho đến ngày ấy (x. 1Tx 4: 18); nhưng ngài cũng không biết gì về ngày giờ của biến cố ấy (x. 2Tx 2). [33]
– Tóm lại: là một con người thật sự, Ðức Giêsu cũng đã phải học biết qua những kinh nghiệm cuộc sống. Kiến thức Ngài đã phát triển và càng ngày Ngài càng hiểu rõ hơn về những gì mà từ lúc đầu Ngài đã “biết,” nhưng không biết hết và rõ về những chi tiết Chúa Cha chưa mạc khải cho. Trong khi trông chờ “ngày ấy” (mà chỉ Chúa Cha biết), các môn đồ phải canh thức làm việc xây dựng Nước Chúa. Họ bắt đầu bằng những nhóm nhỏ, chăm lo rao giảng Tin mừng và chờ ngày Ítraen trở lại; họ là mầm giống của Ítraen mới ấy. Ðức Giêsu không có ý sáng lập một tôn giáo khác, một Ítraen khác; điều Ngài nhằm tới là ekklesía, một cộng đồng mà Ngài sẽ xây dựng trên nền đá Phêrô. Ðiều ấy sẽ xảy ra như thế nào ? Chúa Thánh Thần sẽ dẫn dắt các tín hữu vững bước đi giữa lòng lịch sử; cứ trông cậy vào Ngài thì chắc chắn họ sẽ thành công. Thật ra, thế hệ kế tiếp đã hiểu là mình “đã được giải thoát khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái” (Cl 1: 13), nói cách khác, ý thức rõ là những lời hứa và niềm hy vọng kia quả đã ứng nghiệm.
2. Vấn đề phổ quát
Ðức Giêsu đã có những dự kiến nào đối với các dân tộc ngoài Do thái ? Là công giáo tự bản tính, Giáo hội bao gồm hết mọi dân tộc. Ðức Giêsu có quan niệm Giáo hội là như thế không ? Không ai phủ nhận giáo thuyết Ðức Giêsu mang tính chất phổ quát; vì thế, ông A. Loisy đã có thể nói rằng: “Giáo hội là thành quả mỹ mãn của giáo lý Ðức Giêsu,” dù chính Ngài – theo A. Loisy – đã không nghĩ đến Giáo hội ấy.
– Phúc âm có ghi lại sự việc Ðức Giêsu chỉ thị cho các môn đồ đừng đi rao giảng ở những miền dân ngoại (x. Mt 5: 10.23), và quan niệm sứ mạng của mình chỉ giới hạn vào “những chiên lạc nhà Ítraen mà thôi” (Mt 15: 24). Có thể là Ngài tưởng Nước Trời sẽ mở cửa đón các dân ngoại khi họ hành hương lên Sion (x. Mt 8: 11tt; 25: 32), như các ngôn sứ đã tiên báo (x. Is 2: 2tt; 25: 6; 49: 12).
– Ðể giải đáp vấn nạn, thì cần phải chú ý đến cách thức Ðức Giêsu quan niệm về sứ mạng mình. Ðã đành, Ðức Giêsu ý thức mình là Ðấng Thiên sai ; nhưng sứ mạng của Ðấng ấy sẽ như thế nào ? Về mặt nhân tính, Ðức Giêsu phải nhờ đến những phương tiện sẵn có mà tìm hiểu, nghĩa là Ngài phải nhờ đến Kinh Thánh để “hình dung” vai trò của Ðấng Mêsia. Ngài mang ơn cứu độ của Giavê là Cha mình, đến cho loài người; nhưng ơn ấy được Kinh Thánh miêu tả như thế nào...
Trong Cựu Ước, thường đọc thấy não trạng độc chủng bài ngoại, và khuynh hướng nêu bật những đặc quyền của Ítra-en vì biết đó là dân được Thiên Chúa tuyển chọn (x. Ðnl 7: 6tt; 32: 9; v.v.); còn các dân ngoại thì bị gọi là “tội lỗi,” “ô uế,” đến nỗi, khi từ Babylon về, Ezra đã đuổi những bà vợ gốc dân ngoại của người Do thái (x. Er 10), vì Thiên Chúa “cấm” giao hôn với họ và “ghét” họ (x. Ðnl 7: 3-4; Is 34: 2). Trong thời Ðức Kitô, quan niệm này thịnh hành rất mạnh. [34] Trong Tân Ước, thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, vẫn còn gợi lại những thành kiến ấy (x. Gl 2: 15) và luôn luôn dành ưu tiên cho dân Do thái (x. Rm 1: 16).
Tuy nhiên, trong Cựu Ước cũng đọc thấy một chiều kích phổ quát. Lời hứa với Abraham sẽ ứng nghiệm đối cả với muôn dân (x. St 12: 2-3; 22: 18). Ðức tin vào Giavê, Chúa tể càn khôn, làm cho họ hiểu rằng Thiên Chúa cũng muốn cho muôn dân tôn thờ Ngài (x. Tv 87). Các ngôn sứ đã tiên phác cảnh tượng các dân ngoại hành hương về Sion (x. Is 2: 2-4; 56: 6-8), vì “ngày ấy” Giavê sẽ là vua toàn cầu (x. Dcr 14: 9). Ðức Giêsu cũng đã biết đến phong trào truyền giáo Do thái thời ấy (x. Mt 23: 15); một số người tòng giáo hồi đó đã trở thành tín đồ kitô sau này (x. Cv 6: 5; 10: 2).
Trong bối cảnh ấy, Ðức Giêsu quả đã xử trí như thế nào ? Thường thì cả Ngài lẫn các môn đồ đều sống theo khuôn mẫu não trạng Do thái bấy giờ (nhập thể đích thực là thế). Vì thế, Ngài hiểu sứ mạng của mình theo truyền thống tiên tri, tức là biệt chuyên đối với Ítraen (x. Mt 15: 24). Lúc đầu, các tông đồ cũng nghĩ như vậy (x. Cv 2: 36; 3: 25-26) và, khi Thánh Thần kêu gọi các dân ngoại, các tông đồ đã không hiểu (x. Cv 10-11). Nhưng “mầm giống phổ quát” vẫn bắt đầu mọc lên: Nếu Ðức Giêsu ý thức mình là Tôi tớ Giavê, thế tất Ngài cũng biết là Thiên Chúa đã đặt Ngài làm “ánh sáng muôn dân” (Is 42: 6), “để mang ơn cứu độ đến tận cùng trái đất” (Is 49: 6). Nếu Ngài tự xưng là Con Người, thì ắt là Ngài biết đến sấm ngôn của Ðanien nói rằng mọi dân tộc, quốc gia và tiếng nói đều phải phụng sự Ngài (x. Ðnl 7: 14). Khi long trọng tiến vào Giêrusalem, Ðức Giêsu đã áp dụng cho mình lời tiên tri Dacaria 9: 9 (x. Mt 21: 4-5); tiên tri nói tiếp: “Ngài sẽ loan báo hòa bình cho muôn dân và trị vì từ biển đến biển...” Kết luận tất yếu là Ðức Giêsu quả đã nghĩ đến vai trò hay sứ mạng của mình đối với các dân ngoại.
Quả vậy, Ðức Giêsu đã thực sự mở rộng cửa cứu độ cho mọi người: Ngài đến với những người “tội lỗi” (Mt 9: 13ss) bị loại ra khỏi “lãnh vực tôn giáo.” Ngài không ngại tiếp xúc, gặp gỡ với dân ngoại và giúp đỡ họ, như là viên sĩ quan Rô-ma chẳng hạn; Ngài còn khen lòng mạnh tin của ông (x. Mt 8: 5tt). Ngài cũng đã đi qua vùng dân ngoại và làm phép lạ tại đó (x. Mt 15: 21tt; Mc 5: 1tt); mà hễ đã làm phép lạ tại đâu, tức là đã mang vương quyền Thiên Chúa đến tại đó (x. Mt 12: 28). Ðức Giêsu biết nhiều người không thuộc dân Do thái sẽ vào Nước Trời, còn bao nhiêu đồng bào của mình sẽ bị thải loại (x. Mt 8: 11-12; Lc 13: 28). Sau hết, vào thời cuối đời, Ðức Giêsu ý thức rõ về sứ vụ của mình là phải hiến mạng sống mình “cho nhiều người” được cứu độ (x. Mc 10: 45; Mt 20: 28; x. Ga 12: 32). Từ từ, các tông đồ đã hiểu ra ý nghĩa tiềm ngụ trong những lời nói và việc làm của Thầy mình; vì thế, họ đọc ra mệnh lệnh truyền giáo phổ quát sau đây của Thầy mình: “Hãy đi khắp thế giới... dạy dỗ cho muôn dân...” (Mt 28: 19t; Mc 16: 15; Lc 24: 47, Cv 1: 8).
– Ý định phổ quát ấy đã được thực hiện theo cách thức nào ? Theo cách thức tiệm tiến, tựa hạt giống lớn dần thành cây, tức là hệt như trong mọi công trình của Thiên Chúa. Ðức Giêsu đã gieo hạt giống, các môn đệ đã tiến hành công tác vun tưới... Lúc đầu, các ngài chỉ giảng cho đồng bào và sống theo Do thái giáo. Nhưng các ngài lại đón nhận các người tòng giáo gốc dân ngoại vào trong cộng đoàn của mình và ủy thác cho họ những trách vụ đặc biệt (như trường hợp của Nicôla, người quê Antiôkia: Cv 6: 5). Thánh Thần dùng những biến cố để đẩy họ đi qua miền Samaria hầu giảng Tin mừng với nhiều thành quả cho người dân vùng này (x. Cv 8: 4tt). Những người đi rao giảng như thế là người Do thái có văn hóa Hy lạp, tức là có thái độ cởi mở hơn đối với các dân ngoại. Thần Khí đã mạc khải cho Phêrô về ý định phổ quát đó, nhưng Giáo hội Giêrusalem thời ấy vẫn chưa hiểu ra (x. Cv 10-11). Như vua kia chỉ gửi các đầy tớ mời những người lạ vào tiệc cưới, sau khi những quan khách quen được mời trước đã không đếm xỉa đến lời mời và đã không tới... (x. Mt 22: 1-14ss), thì cũng vậy, các tông đồ chỉ nhận rõ ra được ơn gọi của các dân ngoại sau khi dân Do thái từ chối không chịu tin nhận Ðức Kitô. Phêrô hiểu là các dân ngoại cũng được cứu rỗi bởi Ðức Kitô: “dân xa” (Cv 2: 39) có nghĩa là lương dân (x. Cv 22: 21; Ep 2: 13); nhưng cần phải giảng cho dân Do thái trước đã (x. Cv 3: 25-26). Nhờ Thần Khí soi dẫn (x. Ga 16: 12-13), Giáo hội sơ khai đã dần dần hiểu là các dân ngoại không cần phải giữ luật Môsê (x. Cv 15). Sự việc Ðức Giêsu và các tông đồ có vẻ như “thất bại” trong tác vụ đối với Ítraen là như một mầu nhiệm, chưa ai hiểu nổi (x. Rm 9-11; Ep 3: 5-6). “Mầm giống” phổ quát mà Ðức Giêsu gieo, đã và hiện đang phát triển; và Giáo hội đã hiểu rằng bản chất của mình là truyền giáo, tức là có sứ mạng đem Tin mừng đến cho muôn dân (x. AG 2; 10), vượt lên trên mọi thứ ranh giới từ quốc gia, màu da, chủng tộc cho đến văn hóa...
(còn tiếp)
(Trích http://www.htth.org/)
_________________________________________
[10] Cullmann, O., St. Pierre, disciple, apôtre, martyr, Paris 1952, trg. 154.
[11] Pannenberg, W., Theology of the Kingdom, Philadelphia, 1985; Beasley-Murray, G.R., Jesus and the Kingdom of God, The Paternoster Press, 1986; Willis, W., The Kingdom of God in 20th Century Interpretation, Peabody, MS, 1987; Fuellenbach, J., The Kindom of God: The Heart of Jesus’ Message for Us Today, Manila, 1989.
[12] Xem Schmitt, J., “Prédication apostolique” in DBS viii, 1968, 246-273.
[13] Xem mục euaggelizomai trong Theol.Wort.Neu.Test. II, 707; Strack, H.L.- Billerbeck, P., Kommentar zum N.T. III, trg. 8-9; Bonsirven, J., Le règne de Dieu, Paris 1957.
[14] Xem Rigaux, B., Témoignage de l’Évangile de Matthieu, DDB 1967, trg. 179-190; Chilton, B., The Kingdom of God in the Teaching of Jesus, Philadelphia: Fortress 1984; Crosby, M.H., House of Disciples, Church, Economics, and Justice in Matthew, NY:Orbis Books 1988.
[15] Origênê († 254) gọi Ðức Kitô là autobasileía (hiện thân vương quốc): In Mt. tract. 14, PG 13.1197 ; Tertullianus († 225) viết: “initiatio Evangelii in quo est regnum Dei Christus ipse” Adv. Marc. 4.33, PL 2.441.
[16] Xin xem Cerfaux, L., L’Église suivant saint Paul, Paris: Cerf 1965, ch 17: “Du règne à l’Église”; Beasley-Murray, G.R., Jesus and the Kingdom of God, Exeter: Paternoster Press 1986; Mondin, G.B., La chiesa primizia del Regno; Dupuis, J., “The Church, the Reign of God, and the ‘Others’,” FABC Papers No. 67 (1993)
[17] Sách điển hình về đề tài này là Leuba, Jean-Louis, L’institution et l’évènement, Neuchâtel-Paris 1950.
[18] “Jésus annoncait le Royaume et c’est l’Église qui est venue,” trong L’Évangile et l’Église, 1904, 155.
[19] Xem Lohfink, N., The Covenant Never Revoked, New York: Paulist Press 1991; Commission for Religious Relations with Judaism, “Notes for a Correct Presentation of Jews and Judaism in the Preaching and Catechesis of the Catholic Church,” (24 tháng 6, 1985) đăng tại Origins 15 (1985-6) 102-107.
[20] Lc 10:1: số 72 hoặc 70 theo bản văn khác có lẽ là số tượng trưng.
[21] Xem Médebielle, A., “Apostolat” trong Dict.Bibl.Supplem. 1, 533-588.
[22] Xem Ammassari, A., I Dodici. Note esegetiche sulla vocazione dei Dodici, Città Nuova, Roma 1982; Guillet, J., Entre Jésus et l’Eùglise, Paris 1985.
[23] Dupont, Jacques, trong L’Orient Chrétien, 1956, trg. 443.
[24] Xem Benoit, P., “La mort de Judas,” trong Exégèse et théologie, I, Paris: Cerf 1961, trg. 340-359; về tên Giuđa có cuộc tranh luận bây giờ: xem Wagner, H. (ed.), Judas Iskariot: Menschliches oder Heilgeschichliches Drama?, Frankfurt 1985; Klassen, W., Judas: Betrayer or Friend of Jesus?, SCM Press 1996.
[25] Những thành ngữ tương tự có trong Cv 2:36; Dt 3:2.
[26] Xin xem Dupont, J. “Le nom d’apôtre a-t-il été donné aux douze par Jésus?” trong L’Orient Chrétien, 1956, I; Cerfaux, L., “Pour l’histoire du mot apostolos dans le Nouveau Testament,” Rech.Sc.Rel. 48 (1960) 76-92.
[27] Xem Rengstorf, K.H., apóstolos trong ThWNT, I, 406-440.
[28] de Vaux, R., “Le Reste d’Israel d’après les prophètes,” Rev.Bibl. (1933) 539; Refoulé, F., Et ainsi tout Isrặl sera sauvé (Romains 11,25-32), Paris 1984.
[29] Thành ngữ “Con Người” có 83 lần trong Phúc âm, và luôn luôn trong miệng Ðức Giêsu; vì thế khóa chú giải coi đó là lời chính Ðức Giêsu đã dùng để tự xưng mình. Xem Coppens, J., Le Fils de l’homme vétero-intratestamentaire, Louvain 1983; Lindars, B., Jesus Son of Man, London 1983.
[30] “Tôi tớ Giavê” được giới thiệu trong những “bài hát của Tôi tớ” trong Is 42: 1-9; 49: 1-7; 50: 4-9; 52: 13-53:12
[31] Xem Schnackenburg, R., God’s Rule and Kingdom (1963), 195-214
[32] Xem Mt 10:23: Dupont, J., “Vous n’aurez pas achevé les villes d’Israel avant que le Fils de l’Homme ne vienne” trong Nov.Test. II (1957-8) 228-244; Feuillet, A., “Les origines et la signification de Mt 10,23b. Contribution à l’étude du problème eschatologique” trong Cath.Bibl.Quart. 23 (1961) 182-198.
[33] Plevnik, J., Paul and the Parousia, Peabody: Hendrickson, 1997.
[34] Xem Jeremias, J., Jérusalem au temps de Jésus, Paris: Cerf 1967, ch.V-X.