22/10 - Từ Karol Wojtila Đến Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

 

Đôi dòng tiểu sử

Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II (nay là Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II) tên thật là Karol Josef Wojtyla chào đời ngày 18.5.1920 tại Wadowice, Ba Lan, trong một gia đình đạo hạnh. Chịu Phép rửa tội ngày 20.6.1920. Ngài lớn lên với cha mẹ ngài ở Rynek. Sau đó gia đình dọn tới Krak Via Tyniecka.

Cha là ông Karol Wojtyla, một đại uý trong quân đội Ba Lan, qua đời năm 1941. Mẹ là bà Emilia Kaczorowska, qua đời năm 1929 lúc ngài mới 9 tuổi, vừa được rước Lễ lần đầu. Anh là Edmund qua đời năm 1932 lúc ngài được 12 tuổi. Ngài được lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức năm 18 tuổi

Năm 1926, ngài vào tiểu học và rồi lên trung học Marcin Wadowita, trong những năm tại đây ngài đã đoạt điểm rất cao và làm chủ tịch Hội Tông Đồ Đức Mẹ.

Năm 1934, ngài đã bước vào sự nghiệp sân khấu với diễn xuất lần đầu ở Wadowice, và vào năm 1939, ngài làm việc cho "Phòng thâu 38", một nhóm sân khấu điện ảnh khảo nghiệm của Tadeusz Kudlinski trong lúc theo học tại Đại học Jagellonian. Người thanh niên trẻ Karol tận hiến đời cho Mẹ Maria khi ngài muốn trở thành một minh tinh màn ảnh. Sau khi vừa tận hiến, thì một tư tưởng đến trong đầu Karol: "Tôi muốn là một Linh Mục"... nhưng suy nghĩ ngài lại không muốn là một Linh Mục mà muốn trở thành một minh tinh màn ảnh, thế nhưng ý tưởng trở thành Linh Mục cứ hiện lên trong trí và rồi sau này, ngài đã trở thành một Linh Mục thật !

Khi thế chiến thứ hai lan tràn Âu Châu, thanh niên tuấn tú Karol Wojtyla đang theo học tại Đại Chủng Viện ở Kraków vào năm 1942, được bí mật tổ chức dưới hầm Tòa Giám Mục. Ban ngày các chủng sinh bị xung công đi "lao động là vinh quang" trong một hầm đá; tối về học dưới ngọn đèn cháy leo lét, mù mờ.

Một hôm vào tháng 2 năm 1944, sau giờ "đục đá" trở về, Karol bị một chiếc xe nhà binh Đức đụng phải, rồi bỏ chạy. Karol ngã lăn ra, bất tỉnh bên vệ đường. Một phụ nữ, không biết từ đâu chạy đến, đã làm công việc người Samaritan nhân hậu: Karol được bà đỡ dậy và dìu vào nhà thương cấp cứu. Nhờ đó, Karol được cứu sống.

Khi ra khỏi bệnh viện, Karol đã cố gắng đi tìm ân nhân ấy để cám ơn, nhưng không gặp được bà. Các bác sĩ cho biết người đàn bà đó có những nét phụ nữ Do Thái. Phải chăng rồi, bà đã bị hốt đi và đưa vào lò thiêu sinh cùng với trên 6 triệu người Do Thái đồng hương ? Sau này lên ngôi Giáo Hoàng, chính ngài đã kể lại câu chuyện hi hữu và tuyên bố: "Tôi mong được gặp lại người đàn bà đã cứu sống tôi và hôn tay bà để tri ân". Nhân câu chuyện "lịch sử" ấy, hồi đầu, một tờ báo thiên tả của Ý đã xuyên tạc cho rằng, Tân Giáo Hoàng đã có "bồ" !

Năm 1945, quân đội Nga giải phóng Krakow khỏi ách thống trị của Đức Quốc Xã và rồi Ba Lan trở thành một quốc gia Cộng Sản.

Karol Wojtyla lãnh nhận thừa tác vụ Linh Mục năm 1946, và rồi đậu tiến sĩ Thần Học tại Đại Học Angelicum ở Rôma với đề tài luận án tiến sĩ "Những trở ngại của Đức Tin trong những việc làm của Thánh Gioan Thánh Giá".

Sau đó, từ 1948 đến 1951, ngài đã phục vụ như một Linh Mục xứ ở Kraków; đoạn trải qua một năm tu nghiệp Triết tại Đại Học Jagiellonian. Từ 1952 đến 1958, Karol Wojtyla được bổ nhiệm làm giáo sư Luân lý tại Đại Học Công Giáo Lublin và làm tuyên úy sinh viên.

Năm 1958 ngài đã được tấn phong Giám Mục Phụ Tá, rồi Tổng Giám Mục Giáo Phận Cracovie, và năm 1967, được cố Giáo Hoàng Phaolô VI vinh thăng Hồng Y. Ngài đã tham dự Công Đồng Vatican II năm 1963 và đã đóng góp vào nhiều tài liệu, một trong những tài liệu sau này trở thành Tuyên Ngôn Tự Do Tôn Giáo.

Ngày 22.10.1978, lần đầu tiên ra mắt với công chúng trước tiền đường Thánh Phêrô, tân Giáo Hoàng đã xác quyết tuyên bố ( Mt 14, 27 ): "Đừng sợ !"

Đức Gioan-Phaolô II, với khẩu hiệu: "Duc in altum" - "Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới", đã thổi vào Giáo Hội một nguồn sinh lực mới theo tinh thần Công Đồng Vaticanô II. Chỉ vài tháng sau khi nhậm chức, ngài đã lên đường "đi tìm anh em" trong các đoàn chiên khắp thế giới.

Đức Gioan-Phaolô II đã thực hiện tất cả trên 100 chuyến tông du đến 129 quốc gia trên thế giới. Ngài được xem là một trong những vị Giáo Hoàng tông du nhiều nhất, phong Thánh nhiều nhất. Đến đâu, ngài cũng "củng cố đức tin của anh em", lôi kéo rất nhiều người, khởi động sự chú ý đặc biệt của quần chúng đến sự hữu hình và vai trò của Giáo Hội.

Ngày 13.5.1981, Đức Gioan-Phaolô II bị một thanh niên người Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Agca 23 tuổi ám sát hụt tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Mehmet Ali Agca đã bắn 4 phát súng 9 ly về phía Đức Thánh Cha lúc đó đang đứng chào dân chúng và ngài đã ngã ra phía sau. Viên đạn thứ nhất trúng bụng, viên thứ hai trúng tay trái, viên thứ ba trúng ngực một bà Mỹ 60 tuổi, và viên thứ tư trúng tay người phụ nữ Jamaica 21 tuổi. Lý do tại sao Đức Gioan-Phaolô II bị ám sát vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Mehmet Ali Agca, sinh ngày 9 tháng 1 năm 1958, đã bị kết án tù chung thân về tội mưu sát Đức Thánh Cha.

Trong Đại Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đã xin tổng thống Ý tha cho người sát hại ngài, và Ali Agca sau 20 năm trong tù đã được Ý trao trả cho Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2001, và tiếp tục ở tù ở quốc gia của mình vì tội sát hại một vị giám đốc nhật báo vào năm 1979. Ngài đã vào tù thăm người đã bắn ngài và đã tha thứ cho anh. Ali Agca có lẽ đã cảm kích cử chỉ của Đức Thánh Cha nên đã quỳ xuống hôn tay ngài cách trân trọng.

Chính anh Ali Agca người đã bắn những cú chí tử vào Ðức Gioan-Phaolô II, đã hết sức ngạc nhiên, tại sao bị thương như vậy, mà Đức Thánh Cha đã không chết. Việc Đức Thánh Cha không chết, là vì có bàn tay Ðức Mẹ Fatima. Chính Đức Thánh Cha đã công nhận như vậy và ngày 12 – 13.5.1982, ngài đã đến Fatima hành hương, để tạ ơn Ðức Mẹ và tuyên bố rõ ràng: "Ðức Mẹ Maria đã cứu sống tôi".

Ðể ghi nhớ muôn đời, một trong các viên đạn được lấy ra lúc giải phẫu cho Đức Thánh Cha, tại Bệnh Viện Bách Khoa Gemelli ở Roma, đã được ghép vào triều thiên của Ðức Mẹ tại Ðền Thánh Fatima trong dịp Đức Thánh Cha đến hành hương tạ ơn 13.5.1982. Trong cuộc hành hương Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha còn để lại một kỷ niệm khác nữa: đặt dưới chân Mẹ chiếc nhẫn Giám Mục quí giá, do Ðức Cố Hồng Y Stefan Wyszynski, Ba Lan và Tổng Giám Mục Varsovie, tặng cho ngài khi được bầu làm Giáo Hoàng ( 16.10.1978 ). Còn chiếc giây lưng trắng bị đẫm máu trong vụ mưu sát tại quảng trường Thánh Phêrô lúc 17 giờ 10 phút ngày 13.5.1981, đã được để lại làm kỷ niệm tại Czestochowa, Ðền Thánh quốc gia Ba Lan, nơi Đức Thánh Cha đã đến hành hương nhiều lần trong những năm sinh sống tại Ba Lan và cả sau khi đã làm Giáo Hoàng.

Đức Gioan Phaolô II cũng đã cho phổ biến chuỗi Mai Khôi thứ 4, tức Chuỗi Sự Sáng thêm vào 3 chuỗi đã có từ lâu, có lẽ cũng xuất phát từ lòng tri ân Đức Mẹ.

Chân phước Gioan Phaolô II

Ngày 14-1-2011 Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã cho phép công bố sắc lệnh nhìn nhận một phép lạ nhờ lời chuyển cầu của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II xảy ra 2 tháng sau khi Đức Gioan Phaolô II qua đời.

Nữ tu Simon Pierre Normand, thuộc Dòng Tiểu Muội Bảo Sanh Công Giáo, được các bác sĩ điều trị chẩn bệnh và xác nhận bị bệnh Parkinson năm 2001. Chị được chữa trị theo y khoa, nhưng chỉ giảm đau mà không lành. Khi nghe tin Đức Gioan Phaolô II người cũng bị bệnh Parkinson qua đời, nữ tu Simon Pierre cùng các chị em trong dòng bắt đầu cầu khấn xin Đức Cố Giáo Hoàng Gioan haolô II chữa trị cho chị. Ngày mùng 2 tháng 6 năm 2005, mệt mỏi vì bị những đau đớn đè nặng, chị Simon Pierre xin Bề trên cho phép rời bỏ công việc, nhưng Bề trên khuyên chị tiếp tục tín thác nơi lời chuyển cầu của Đức Gioan Phaolô II. Chị Simon Pierre lui về phòng và ngủ một đêm yên hàn. Khi tỉnh đậy, chị cảm thấy được khỏi bệnh. Những đau đớn biến mất và các khớp xương không còn bị cứng nữa. Đó là ngày mùng 3 tháng 6 năm 2005, lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Chị Simon Pierre đi gặp bác sĩ trị liệu, và ông xác nhận chị được lành bệnh.

Hồ sơ khỏi bệnh của nữ tu Marie Simon Pierre Normand đã được điều tra đúng thủ tục, cùng với các giấy chứng nhận giám định y khoa, pháp luật, đã được Hội đồng y khoa của Bộ Phong Thánh cứu xét ngày 21-10-2010. Các chuyên gia đã đồng thừa nhận rằng cuộc khỏi bệnh của nữ tu Marie Simon Pierre không giải thích được về mặt khoa học. Các cố vấn thần học, sau khi xem xét các kết luận y khoa, đã thẩm định việc khỏi bệnh về phương diện thần học ngày 14-12-2010, và đồng thanh nhìn nhận sự chuyển cầu của Đức Gioan Phaolô II là hữu hiệu đưa tới việc khỏi bệnh lạ lùng nói trên.

Đức Gioan Phaolô II đã được Đức Giáo Hoàng Bênênđictô XVI, vị kế nhiệm cận kề của ngài và là người cộng tác được ngài trân quí trong tư cách tổng trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, phong là Đấng đáng kính ngày 19 tháng 12 năm 2009 và phong Chân phước ngày 01 tháng 5 năm 2010.

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II

 

Ngày 27 tháng 4 năm 2014,  Đức Thánh Cha Phanxicô đã long trọng tôn phong hai vị tiền nhiệm Gioan XXIII và Gioan Phaolô II lên bậc hiển thánh, trước sự tham dự rất đông đảo của các hồng y, giám mục, linh mục và giáo dân đến từ các nước.

Chúa nhật 27-4-2014 thực là một ngày đặc biệt trong lịch sử Giáo Hội. Giới báo chí gọi là ”Chúa nhật 4 Giáo Hoàng”: lần đầu tiên hai vị Giáo Hoàng cùng được tôn phong hiển thánh trong một buổi lễ và lần đầu tiên hai vị Giáo Hoàng: một vị đương kim và một vị cựu, cùng hiện diện trong buổi lễ, Đức Phanxicô và Đức Bênêđictô XVI.

Đối với Dân Chúa tại Việt Nam, Chân phước Gioan Phaolô II là một Vị Mục Tử, một Người Cha, một Người Bạn Lớn, một Ân nhân, người đã dành nhiều quan tâm và ưu ái cho cộng đồng Dân Chúa cũng như nhân dân Việt Nam.

Trong 27 năm được Đức Gioan Phaolô II lãnh đạo (1978–2005), Giáo Hội trên thế giới và tại Việt Nam được hưởng nhờ bao ơn ích từ những giáo huấn, quyết định, sự sắp đặt và tài lãnh đạo, nhất là gương sáng của ngài.

 

Nguồn: Tổng hợp ghxhcg.com, phimconggiao.net

 


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com