Lời Chúa CN

Tìm hiểu Kinh Thánh Chúa nhật XXXII Thường Niên Năm A - Marie-Noëlle Thabut

BÀI ĐỌC 1 (Kn 6, 12-16)

 

"Những ai tìm kiếm sự khôn ngoan sẽ gặp được nó"

Bài trích sách Khôn ngoan.

 

12 Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ.
Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan,
thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng.
Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan,
thì Đức Khôn Ngoan cho gặp.

13 Ai khao khát Đức Khôn Ngoan,
thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết.

14 Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan,
thì không phải nhọc nhằn vất vả.
Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà.

15 Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan
là đạt được sự minh mẫn toàn hảo.
Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm,
sẽ mau trút được mọi lo âu.

16 Vì những ai xứng đáng với Đức Khôn Ngoan,
thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm.
Trên các nẻo đường họ đi,
Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện.
Mỗi khi họ suy tưởng điều gì,
Đức Khôn Ngoan đều đến với họ.

 

Với Aragon (LND: Thi sĩ trữ tình Pháp đầu thế kỷ XX) các tình nhân hát: «Ta sẽ ra sao đây nếu người không còn đến gặp ta?»; các tín hữu còn hát mạnh hơn thế nữa. Đức tin hẳn là một câu truyện gặp gỡ. Trong bài sách Khôn Ngoan này, cũng như trong toàn Thánh Kinh, đây là đức tin Ít-ra-en, Giao Ước Thiên Chúa với dân tộc Ngài chọn. Tác giả sách Khôn Ngoan là một tín hữu! Tôi nói “tác giả” vì không thể chính xác hơn! Không ai biết tác giả là ai, chỉ có một điều chắc chắn: dù sách này có tựa đề: «Sách khôn ngoan của vua Sa-lô-môn» nhưng không phải vua Sa-lô-môn, con vua Đa-vít, trị vì vào năm 950 trước CN. Sách được viết bằng tiếng Hy-lạp (không bằng tiếng Do Thái), do một người Do Thái ẩn danh, tại thành A-lê-xan-ri-a xứ Ai-cập, chỉ khoảng chừng 50 năm thôi – còn có thể gần hơn nữa - trước Chúa Giê-su sinh ra. Đoạn chúng ta được nghe trong phụng vụ hôm nay, nằm trong cả một tổng thể các lời khuyên các vua. Dĩ nhiên việc gán tên tác giả cho một vua điển hình là vua khôn ngoan nhất, để có đủ cương vị ban bố những lời khuyên trong sách.

Chương 6 bắt đầu bằng những câu sau đây: «Vậy, hãy lắng nghe, hãy cố hiểu, hỡi các bậc quân vương; hãy học cho biết, hỡi những vị đang nắm quyền trên khắp cõi trần gian…Vậy, hỡi các bậc vua chúa quan quyền, những lời tôi nói đây, xin gửi tới chư vị để chư vị học biết lẽ khôn ngoan, mà khỏi phải sẩy chân trật bước.» (Kn6,1.9) Bài giảng gồm ba điểm.

 Điểm thứ nhất, sách Khôn ngoan là điều quý giá nhất trên đời, và nơi đây sách có đề tựa quá nghiêm túc lại toát ra những đoạn văn bay bổng, không ai ngờ: «Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ.» (c12) hay câu sau đây: «Vì chuyển động của Đức Khôn Ngoan thì mau lẹ hơn tất cả các chuyển động. Do tính thuần khiết, Đức Khôn Ngoan thâm nhập và xuyên thấu mọi vật mọi loài. Đức Khôn Ngoan toả ra từ quyền năng Thiên Chúa và rực lên trong ngôn từ vinh hiển Đấng Toàn Năng, nên không thể vương một tì ố.» (Kn7, 25-26) Sự khôn ngoan quý vô cùng, đến nỗi được ví như một phụ nữ hết sức quyến rũ: «Đức Khôn Ngoan rực rỡ hơn mặt trời, trổi vượt muôn tinh tú. So với Đức Khôn Ngoan, ánh sáng còn kém xa. Bởi trước màn đêm, ánh sáng đành phải lui bước. Còn Đức Khôn Ngoan, chẳng gian tà nào thắng nổi.» (Kn7, 29-30). «Từ thời trai trẻ, tôi đã yêu quý và kiếm tìm Đức Khôn Ngoan, tôi tìm cách cưới Đức Khôn Ngoan làm bạn đời; và vẻ đẹp của Đức Khôn Ngoan làm tôi say đắm.» (Kn8, 2) Điểm thứ hai, sự Khôn Ngoan nằm trong tầm tay, đúng hơn Ngài tự đặt trong tầm tay chúng ta «Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan cho gặp.» (c2) Nhân đây, xin lưu ý thể văn có tính đong đưa bên này rồi bên kia, thường dùng trong Thánh Kinh, đặc biệt nơi các Tiên Tri hay các Thánh vịnh. Nhưng, nhất là giữa hai câu song song có một câu nền tảng để xác nhận: Đó là  để nói lên không có điều kiện nào được đặt ra để gặp gỡ Thiên Chúa; không có điều kiện để được đức khôn ngoan, không có công trạng nào cần phải có hay một giá trị cá nhân nào mới xứng đáng…Chúa Giê-su sau này cũng nói như thế nhưng Ngài phát biểu cách khác: «Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho» (Mt7, 7-9) Chỉ cần chúng ta ao ước; dĩ nhiên với một điều kiện: Phải tìm kiếm, ao ước hết lòng «Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa» (câu 2 trong bài thánh vịnh hôm nay) «Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan, thì không phải nhọc nhằn vất vả. Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà.» (c14); lời xác quyết ấy luôn nhấn mạnh Đức Khôn Ngoan lúc nào cũng ở cạnh bên ta, chỉ cần ta tìm kiếm…đó cũng là cách nói chúng ta có tự do; Chúa không bao giờ ép buộc chúng ta.

Điểm thứ ba, chẳng những Đức Khôn Ngoan đáp ứng mọi chờ đợi chúng ta, nhưng còn tìm kiếm đến chúng ta nữa, Đức Khôn Ngoan đi trước một bước ! Và đây, còn táo bạo hơn…thế mà được viết rõ ràng trong bài: «Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết…Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm. Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ.» (c13.16). Vì, đến đây mọi người đã đoán ra Đức Khôn Ngoan chính là Thiên Chúa, Ngài linh ứng mọi hành động chúng ta.

Về sau, Thánh Phao-lô nói Chúa Giê-su là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa: «Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa…» (1Cr1, 24-30) «Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết…Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm. Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ.» (c13.16). Tự sức mình, chúng ta không thể với tới Thiên Chúa. Sự xứng đáng nói ở đây, chỉ là lòng ao ước Thiên Chúa: Một công đức duy nhất đòi hỏi nơi chúng ta, đó là lòng ao ước tìm kiếm Thiên Chúa.

 Đây mới có sự gặp gỡ, giao ước: Biết rằng muốn có sự gặp gỡ thân tình giữa hai đối tượng, cả hai phải mong muốn. Đoạn này, Thánh Kinh muốn nói lên là Thiên Chúa tìm kiếm chúng ta. Chỉ cần và đủ, con người tìm kiếm Thiên Chúa: «Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm. Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ.» (c16).  

Chúng ta có thể tự đặt câu hỏi, dựa vào tiêu chuẩn nào có thể nói một ông vua (hay bất cứ ai) khôn ngoan hay không? Đây Tiên tri Giê-rê-mi-a nói về điều này: « ĐỨC CHÚA phán thế này: "Kẻ khôn ngoan, đừng tự hào mình khôn ngoan; kẻ hùng mạnh, đừng tự hào mình hùng mạnh; kẻ giàu có, đừng tự hào mình giàu có. Ai tự hào thì hãy tự hào về điều này, là hiểu biết Ta. Vì Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng thực thi nhân nghĩa, công bình và chính trực trên mặt đất. Phải, Ta ưa thích những điều này. - Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA."» (Gr9, 22-23) Đây là tiêu chuẩn về đức khôn ngoan, Khôn Ngoan thật, thể hiện bằng lòng nhân ái, công minh, chính trực.

Tác giả bài cũng nói tương tự: «Chính Đấng Tối Cao đã ban quyền thống trị. Cũng chính Người sẽ kiểm tra các việc chư vị làm và dò xét những điều chư vị toan tính...nếu như chư vị không xét xử công minh, không tuân giữ lề luật, không theo ý Thiên Chúa,» (Kn6, 3-4). Quả thật, trong Thánh Kinh lúc nào cũng thế: Điều duy nhất đòi hỏi nơi chúng ta, là hành động theo thánh ý Chúa. Chúa Giê-su phán: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha» (Mt7, 21) và Tiên tri Mi-kha cũng nói rõ: «Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt, điều nào ĐỨC CHÚA đòi hỏi bạn: Đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn» (Mk6, 8) (có nhiều nơi dịch «chăm chỉ theo dõi bước đi với Chúa»). Tất cả các bài đọc Chúa nhật thứ XXXII đều nói lên sự cảnh giác ấy.

***

 

THÁNH VỊNH (Tv62, 2-8)

 

Đáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khao khát Chúa.

 

2 Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.

3 Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.

4 Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương.

5 Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài.

6 Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca.

7 Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thỉ với Ngài.

8 Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui.

 

«Nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui» tuyệt vời, nhưng cũng không kém lạ lùng! Thật ra phải tưởng tượng mình đang ở bên trong Đền Giê-ru-sa-lem (dĩ nhiên trước khi Đền bị tiêu diệt năm 587 trước CN do quân của Na-bu-cô-đô-nô-so)…và chúng ta là tư tế hay người Lê-vi. Đây là nơi rất thánh thiêng, nơi «Cực Thánh», nơi đặt Hòm Bia Thiên Chúa. (LND: Hòm Bia Thiên Chúa tiếng Pháp là Arche, đồng nghĩa với cửa thành). Xin chú ý, ngày nay chúng ta gọi là arche, và có thể nghĩ đến một công trình kiến trúc đồ sộ: Những người ở Paris có thể nghĩ đến Khải Hoàn Môn xóm Défense. (Grande Arche de la Défense)…Đối với Ít-ra-en, không phải thế! Đây là điều gì rất thánh thiêng: Một cái hòm nhỏ bằng gỗ quý, được bọc vàng từ bên trong lẫn bên ngoài, đựng những tấm bia Lề Luật. Trên nắp hòm có tượng hai thiên thần Hộ Giá.

Thiên thần Hộ Giá không do Ít-ra-en nghĩ ra: Thiên thần Hộ Giá này đến từ Mê-sô-pô-ta-mi-a. Đây là những nhân vật thánh thiêng mặt người, mình sư tử, và nhất là có hai cánh thật lớn. Ở Mê-sô-pô-ta-mi-a được thờ như những bậc thần thánh…Trái lại, tại Ít-ra-en các tượng này được cẩn thận giải thích là những tạo vật: Chỉ tượng trưng những đấng bảo vệ Hòm Bia, nhưng đôi cánh được xem là bậc thang Chúa bước lên. Bài này nói về một tư tế đang cầu nguyện trong Đền thánh, dưới hai cánh thiên thần, cảm thấy được ấp ủ lòng trìu mến yêu thương của Thiên Chúa, từ rạng đông cho đến khi đêm đến.

Tất cả những biểu tượng khác của bài Thánh vịnh hôm nay, đều được rút từ ngữ vựng các Lê-vi: «con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện» (c3) (chỉ người Lê-vi mới có quyền vào vùng thánh trong Đền)…«Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng» (c5) (suốt cuộc đời, họ dành cho việc tán tụng Thiên Chúa)…«giơ tay cầu khẩn danh Ngài» (c5b) (các người Lê-vi cầu nguyện hai tay giơ lên trời)…«Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca.» ( c6) (ngụ ý nói đến các lễ tế, sau đó có buổi tiệc hiệp nhất cùng với tất cả cử tọa; mặt khác các người Lê-vi nhận một phần thịt trong các lễ tế)…«Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thỉ với Ngài.» (c7) (suốt đời họ sống trong vòng Đền thánh).

Thật ra bài Thánh vịnh này như một bài dụ ngôn. Người Lê-vi là toàn dân Ít-ra-en, từ rạng đông của lịch sử dân tộc cho đến ngày cánh chung, họ ngạc nhiên thán phục được Thiên Chúa đề nghị  gần gũi thân tình: «Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa…» (c2a). Cụm chữ «ngay từ rạng đông» có nghĩa từ khởi đầu lịch sử của dân tộc họ; từ nguyên thủy dân Ít-ra-en tìm kiếm Thiên Chúa. «Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.» (c2b) Tại Ít-ra-en những từ ngữ này rất thực tế: Đất hoang, khô cằn, chỉ chờ mưa xuống để hồi sinh, đây là một trải nghiệm trong đời thường, rất gợi ý.

Từ rạng đông của lịch sử, Ít-ra-en đã khao khát Thiên Chúa, sự khao khát thật sự vì họ đã trải nghiệm sự hiện diện và gần gũi thân tình mà Chúa đã đề nghị. Và vì thế, nếu hiểu ở bậc cao hơn, đây là trải nghiệm của dân Ít-ra-en được lộ ra trong bài Thánh vịnh này. Ví dụ như câu: «Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.» (c2) Rõ ràng câu này ngụ ý nói đến những ngày vừa ra khỏi Ai-cập, gặp phải trải nghiệm kinh khủng lúc sắp chết khát tại Ma-xa và Mơ-re-va (Xh17). Lời nguyện phát xuất từ ý nghĩa thiêng liêng bài Thánh vịnh, tựa như lời người sắp chết vì mất nước: «Ta khát».

«Con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện» (c3) Câu này ngụ ý nói đến những biểu hiện Thiên Chúa tại Si-nai, chốn thiêng liêng, nơi ấy dân chúng ngắm nhìn Thiên Chúa ban cho họ Giao Ước…«để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.» (c3b) Trong ký ức Ít-ra-en, điều này gợi lên những kỳ công trong thời Xuất Hành, để giải thoát khỏi nô lệ Ai cập, cũng như câu: Ngài đã thương trợ giúp» (c8). Trong ký ức Ít-ra-en, không bao giờ ai có thể quên câu Chúa nói cho ông Mô-sê: «Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng, Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập» (Xh3, 7-8a)     

Khi suy niệm về sự giải thoát ấy của Thiên Chúa, ta không khỏi so sánh với chim Bằng tập bầy con bay nhảy: «Tựa chim Bằng trên tổ lượn quanh, giục bầy con bay nhảy, xoè cánh ra đỡ lấy rồi cõng con trên mình.» (Đnl32, 11) Như tiếng vang, trong sách Xuất Hành, lúc nghi thức Giao Ước, có câu: «Ngươi sẽ nói với nhà Gia-cóp Các ngươi thấy Ta đã xử với Ai-cập thế nào, và đã mang các ngươi như trên cánh chim bằng, mà đem đến với Ta» (Xh19, 3b. 4). Và đây, cánh các thiên thần Hộ Giá trong Đền thánh lại mang một ý nghĩa khác. Đó là cánh bảo hộ của Đấng tập cho Ít-ra-en biết con đường của tự do.

Tất cả những gợi ý một đời sống trong Giao Ước, với sự gần gũi mật thiết, có thể là những bằng chứng bài Thánh vịnh này được sáng tác trong một giai đoạn không mấy sáng sủa, khi mọi người cần bám vào những kỷ niệm trong quá khứ. Tất cả không mấy tốt đẹp, những câu sau cùng (không được đọc trong phụng vụ hôm nay) nói rõ lên điều ấy; có thể nói bài Thánh vịnh phát biểu một cách mạnh bạo, lòng nôn nóng chờ sự dữ biến đi khỏi trái đất, ví dụ như: «Còn những kẻ tìm hại mạng sống con, ước gì chúng phải xuống vực sâu lòng đất,» (c10). Ít-ra-en chờ đợi mọi lời hứa của Thiên Chúa hoàn tất, trời mới, đất mới, giải thoát khỏi mọi sự dữ và bách hại.

Câu: «ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa…Linh hồn con đã khát khao Ngài» (c2) nói lên sự tìm kiếm ấy vẫn chưa thỏa lòng: Ít-ra-en là dân tộc chờ đợi, cậy trông. «Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông. Hơn lính canh mong đợi hừng đông,» (Tv130, 6) Khi Chúa Giê-su nói canh thức trong bài dụ ngôn các trinh nữ khôn ngoan và trinh nữ dại khờ (trong bài Phúc âm hôm nay) đó là Ngài muốn nói đến điều này: Sự tìm kiếm Chúa liên lỉ.       

Ngày nay dân Thiên Chúa nối gót dân tộc Ít-ra-en, nhận lấy lời nguyện này, sự khao khát, mong chờ: Bài Thánh vịnh 62 thuộc về Kinh Phụng Vụ sáng Chúa nhật (tuần 1): vì trong phụng vụ Ki-tô, đó là ngày Chúa Ki-tô Phục Sinh, là ngày đặc biệt, chúng ta cử hành toàn diện mầu nhiệm Giao Ước Thiên Chúa với dân Ngài, từ rạng đông lịch sử, trong lúc chờ đợi ngày cánh chung của Nước Trời.

***

 

BÀI ĐỌC 2 (1Tx4, 13-18 )

 

Nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa sẽ đem những người đã chết dến làm một với Người

Trích thư thứ nhất của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Thê=xa-lô-ni-ca

 

13 Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng.

14 Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su.

15 Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu.

16 Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Ki-tô sẽ sống lại trước tiên;

17 rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi.

18 Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau.

Người ta thường tự hỏi, Ki-tô hữu họ có gì hơn kẻ khác. Thánh Phao-lô vừa cho một lời đáp: họ được ban cho một món quà, đó là niềm hy vọng ! Đối với thánh nhân đó là sự khác biệt: « chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. »(c13). Niềm hy vọng không dựa vào lý luận, cũng không dựa vào lời rao giảng của ai đó…nhưng dựa vào một sự kiện, nhưng là một nền tảng vững chắc của đức tin : đó là sự Phục Sinh của Chúa Giê-su Ki-tô.

Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Cô-rin-tô Thánh Phao-lô còn nói như sau : « Mà nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng»(1Cr15, 14) : Trong hai điều chỉ có một : hoặc Chúa Ki-tô đã sống lại, hoặc Chúa Ki-tôi không có sống lại. Nếu Ngài không đã phục sinh, trường hợp này tựa như đức tin của chúng ta bị đổ vỡ tan tành « Mà nếu Đức Ki-tô đã không tri dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền… Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Ki-tô cũng bị tiêu vong Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.»(1Cr15, 17-19)  Nếu quả thật là thế thì chúng ta đã bị phỉnh gạt, và tương lai bế tắc.

Nhưng, dĩ nhiên, Thánh Phao-lô tiếp, cũng trong thư gửi cộng đoàn Cô-rin-tô : « Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu.»(1Cr15, 20). Từ ngữ  « mở đường» có thể hiểu như những đứa con đầu lòng của nhân loại hằng sống. Thánh Phao-lô có ngụ ý nói lên tập quán hiến tế trong Cựu Ước. Vật lễ dâng hiến Thiên Chúa là những thành quả đầu mùa ( hoa trái mùa gặt, những con vật mới sinh của đàn gia súc), thường là tất cả mùa gặt hái hay tất cả đàn thú vật. Cũng như thế Chúa Giê-su Phục sinh là « mở đường» cho cả nhân loại. Lúc bấy giờ chúng ta có thể chiêm ngắm kế hoạch Thiên Chúa: Chúa hằng sống tạo ra một dân tộc hằng sống; và cũng vì thế mà chúng ta là một dân tộc có niềm hy vọng.

Chúng ta hãy nhớ lại cuộc tranh luận với những người Xa-đốc ( Mt22, 23): thời Chúa Giê-su lòng tin vào sự phục sinh là một bước tiến còn mới mẻ của thần học Do Thái. Những người Pha-ri-sêu thì tin nhưng người Xa-đốc thì không tin. Những người này biện minh vì sao họ không tin, dựa vào tính phức tạp của một giả thiết phục sinh, một người phụ nữ cưới lần lược bảy người chồng: «Vậy, trong ngày sống lại, bà ấy sẽ là vợ ai trong số bảy người, vì tất cả đều đã lấy bà? » (mt22, 28) Chúa trả lời, trước tiên không nên nghĩ rằng sau phục sinh là một phụ bản chép lại đời này trên trái đất chỉ khác là trong tương lai ấy không còn phải chết nữa, không phải thế ; nhưng Ngài xác quyết rằng : « Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, thì các ông không đọc lời Thiên Chúa đã phán cùng các ông sao? Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống» (Mt22, 31,32)

Lời ấy đã làm cho Chúa Giê-su có thể chạm trán với sự chết. Mỗi khi Chúa loan báo cuộc Thương Khó cho các môn đệ, luôn luôn Chúa nói đến sự phục sinh của Ngài. ( ví dụ như trong Mt16, 16). Lời ấy theo lẽ giúp đến phiên chúng ta có thể can đảm đương đầu với cuộc sống, không quá lo lắng khi nghĩ đến đường cùng không thể tránh được ấy, và chạm trán khi ngày chết đến. Như Thánh Phao-lô cũng nói : «  Thật vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta. Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người…. có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở»(Rm8, 17- 19.22). Sự sinh nở ấy là kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, khi chúng ta nghĩ đến sự chết ; khi ấy chúng ta chỉ còn phó thác cho thánh ý Chúa,  lúc nào thiên ý cũng tốt lành cho chúng ta : « Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô. Cũng trong Đức Ki-tô,» (Ep1, 9-10)

Kế hoạch Thiên Chúa, chính là một dân tộc hằng sống, quy tụ làm một với Chúa Giê-su Ki-tô, như một người duy nhất. Rốt cuộc điều khó nhất cho chúng ta là tưởng tượng đến kế hoạch kết hiệp ấy : « quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô.» (Ep1, 10). Hẳn Thánh Phao-lô nghĩ đến điều này khi ngài nói: « Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? … Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.» (Rm8, 35-39)  

Không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi Ngài, không có gì ngay cả sự chết thể lý. Vì thế Thánh Phao-lô dùng hình ảnh giấc ngủ ; người đang ngủ là người còn sống ! Và họ còn lấy lại sức nhờ giấc ngủ…Vì thế những kẻ rời chúng ta ra đi, không tách rời khỏi Thiên Chúa…Như Thánh Phao-lô nói cho chúng ta qua bài hôm nay : « Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. »(c17). Thì đây là điều giúp chúng ta cùng nâng đỡ cho nhau. Chính Thánh Phao-lô đôi lúc ngài cũng cần như thế, vì lẽ đó ngài nói trong thư thứ hai gửi giáo đoàn Cô-rin-tô : « Cho nên chúng tôi không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời.» (2Cr4, 16-17) ; và trong thư gửi dân thành Phi-líp-phê : « Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người »(Pl3, 20-21)   

Đề kết luận, chúng ta thử tưởng tượng, ngày mà Chúa Giê-su gọi : « Ngày quang lâm của Con Người » (Mt24, 29) : người phóng viên trực lúc ấy viết : « Tất cả mọi người trỗi dậy như một người» 

***

 

PHÚC ÂM (Mt 25, 1-13)

 

Alleluia, alleluia

- Lạy Chúa xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng ngh; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.

------------------

"Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người."

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mát-thêu.

 

1 "Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể.

2 Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn.

3 Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo.

4 Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.

5 Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả.

6 Nửa đêm, có tiếng la lên: "Chú rể kia rồi, ra đón đi! "

7 Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn.

8 Các cô dại nói với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi! "

9 Các cô khôn đáp: "Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn."

10 Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại.

11 Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: "Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với! "

12 Nhưng Người đáp: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả! "

13 Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.

Các bạn hẳn biết bài «Choral du veilleur» (Hợp xướng Người Canh thức) của nhạc sĩ Jean Sebatien Bach: Cái tên của tác phẩm không nói lên, nhưng thực ra là một biến tấu của bài dụ ngôn những trinh nữ khôn và những trinh nữ dại. Bài bắt đầu bằng một điệu múa vui tươi, với cung điệu khá bổng: Đó là các trinh nữ dại; rồi đến đoạn trầm, đưa vào loại diễm ca «adoro devote»: Đây là những trinh nữ khôn đang suy niệm; sau cùng đến lượt xướng âm của bàn đạp  đàn organ đưa lên khúc nhạc đều đều, càng ngày càng tăng âm lượng, tượng trưng cho thời gian trôi qua. Có nhiều phương cách sống thời gian trôi qua. Đối với Ki-tô hữu, thời gian ấy chỉ có tích cực mà thôi: Đó là thời gian cách khoảng với lúc Chúa đến, “Con Người quang lâm” (Mt24, 37)

Trong bài dụ ngôn này, Chúa Giê-su đem chúng ta đến tận cùng cuộc lữ hành, ngày Nước Trời được hoàn tất, và Ngài miêu tả cho thấy như một buổi chiều ngày cưới: «Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể…» (c1) Ngay từ đầu, có thể luận rằng Chúa kể bài dụ ngôn này không để chúng ta hoang mang. Trái lại, mục đích của mọi bài dụ ngôn để củng cố lòng tin người nghe, bằng cách khuyến khích để suy ra một kết luận soi sáng đời sống của họ. Từ đó, chúng ta cũng có thể suy ra lời sau cùng «anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.» (c13) câu này không để làm cho chúng ta sợ, vì đó không phải mục đích Chúa Giê-su. Chính chúng ta phải thử tìm giải đáp câu này muốn nói lên điều gì.

Đã là một bài dụ ngôn, nghĩa là, rốt cuộc bài học rút ra từ đấy mới là chủ yếu. Không phải một bài ẩn dụ, ngụ ý nói lên một việc gì có thật, vì thế không nên tìm những chi tiết của câu truyện, hay những trường hợp xảy ra như những nhân vật có thật. Sau cùng, chúng ta cũng không nên công phẫn các trinh nữ lo xa không chia dầu, đây không phải một bài dụ ngôn về lòng quảng đại, chia sẻ. Một khi chúng ta cẩn thận rào đón những điều ấy, lúc bấy giờ, thử tìm hiểu ý nghĩa câu cuối bất hủ của bài: «hãy canh thức». Để bắt đầu, chúng ta xem lại từ đầu, từ những sự kiện của bài dụ ngôn: Lễ cưới, lời mời; mười cô gái, năm cô vô tư, năm cô lo xa (có sách dịch các cô thấy trước); các cô lo xa có dầu trữ, các cô dại đem đèn không mang dầu…cũng dại như đem đèn để dưới đáy thùng: «Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà.» (Mt5, 15)

Chàng rể đến muộn, tất cả nhóm này đều ngủ, những cô lo xa cũng như các cô khác. Nhân đây xin lưu ý, bài không có ý trách mọi người ngủ, điều này chứng minh cụm chữ «hãy canh thức» trong câu cuối không cấm ngủ, thật là nghịch lý!

Cuối cùng, rồi chàng rể cũng đến, và câu chuyện về sau ta biết như thế nào: Các cô lo xa tiến vào phòng tiệc cưới, các cô dại bị đóng cửa không được vào. Với câu sau đây trong bài, không biết chúng ta nên hiểu quá khắt khe hay đáng thương hại: «tôi không biết các cô là ai cả!» (c12) Và sau đó là lời kết bất hủ: «Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.» (c13).

Có một điều lạ lùng, Chúa Giê-su cũng đã triển khai một đề tài tương tự trong một bài dụ ngôn khác, bài xây hai cái nhà: Một cái xây trên nền đá, cái kia xây trên cát: «Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào» (Mt7, 25a): một nhà đứng vững, nhà kia bị nước cuốn. Đến đây không có gì mới lạ, chúng ta nghĩ như thế; thế nhưng, Chúa Giê-su bỗng giải thích: Những người xây nhà trên nền đá, đó là: «ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành …» (Mt7, 24). Vậy «những lời Thầy nói đây» là gì?

Đang ở trong chương 7 Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu. Vài hàng trước, chúng ta có thể đọc: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: "Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? "Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!» Và Chúa Giê-su nói tiếp:  "Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành" (Mt7, 21-27). Trong bài dụ ngôn hai cái nhà, sự nối tiếp hai ý được rõ ràng: «Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!» Nói cách khác: Các người làm nhiều điều rất tốt (làm ngôn sứ, làm phép lạ…) nhưng các ngươi không thương yêu anh em. Trong bài dụ ngôn mười trinh nữ cũng như thế: Ta không biết các ngươi vì các ngươi không là ánh sáng cho trần thế…các ngươi được ơn gọi, nhưng các ngươi không mang dầu cho đèn cho các ngươi.

Trong hai bài Chúa Giê-su dùng một cách nói: «Ta không hề biết các ngươi» Không phải một án phạt vĩnh viễn, nhưng là một nhận xét đáng buồn: «Ta chưa biết các ngươi, các ngươi chưa sẵn sàng cho Nước Trời, các ngươi chưa sẵn sàng vào tiệc cưới»; có lẽ nên hiểu «Ta không biết các ngươi, các ngươi không giống hình ảnh của Ta, các ngươi chưa hiệp nhất với Ta

Việc xét song song hai bài dụ ngôn có thể mang lại cho ta nhiều ánh sáng. Bài này có thể là lời kết của bài giảng của Chúa Giê-su trên núi: «Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.» (Mt5, 43-48)

Tỉnh thức tức là sống ngày qua ngày như chúng ta được tạo nên, giống hình ảnh Chúa Cha: Đó là yêu như Ngài. Điều này không thể được, chúng ta có khuynh hướng nói như thế…May thay, sự kiện chúng ta được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa là món quà được ban nhưng không. Như được nghe trong các bài đọc khác ngày Chúa nhật hôm nay, chỉ cần ao ước, tìm kiếm - như bài Thánh vịnh: «Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa» (Tv62, 2), đi đến sự Khôn Ngoan như nghe trong Bài đọc 1, là sự hoàn hảo, sự công minh và công chính. Tỉnh thức tức là luôn luôn sẵn sàng lãnh nhận. Sự gặp gỡ chàng rể không phải chờ đến ngày tận cùng, ngày cùng tận lịch sử thế gian của mỗi người, nhưng là mỗi ngày trong đời; Mỗi ngày trong đời Ngài nhào nặn chúng ta giống hình ảnh Ngài.

***

 

Tác giả: Marie-Noëlle Thabut
Nguồn: Sách L’ intelligence des Ecritures Socéval Editions


Dịch giả: E. Máccô Lương Huỳnh Ngân

Hiệu đính: Nguyễn Thế Hoằng.

 


Ý kiến của bạn


Mã an ninh
Click thay đổi mã khác

Copyright @ 2021 Cursillo Sài Gòn
Ban Biên tập trang Web Cursillosaigon.org
Email: cursillosg2015@gmail.com